Ngày 25-04-2024 03:52:01
 


Mọi chi tiết xin liên hệ với trường chúng tôi theo mẫu dưới :
Họ tên
Nội dung
 

Lượt truy cập : 6686686
Số người online: 8
 
 
 
 
Văn mẫu, tặng riêng cho lớp 12
 

Văn mẫu, tặng riêng cho lớp 12

1>__ Cảm nhận, phân tích: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, kết quả của chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.

Bản thân Nguyễn Tuân khi viết nên tác phẩm này đã thực hiện hoàn tất một hành trình khẳng định phong cách tuỳ bút độc đáo của nhà văn khi đi theo con đường cách mạng. Vốn sống và tài năng của người nghệ sĩ tài hoa này đã gặp được môi trường Tây Bắc với bao nhiêu vẻ đẹp tiềm ẩn trong mảnh đất và con người, từ đó giúp ông có những phát hiện mới mẻ, tô đậm những ấn tượng kỳ vĩ nên thơ về Tây Bắc trong lòng bạn đọc.

Thiên tuỳ bút Người lái đò sông Đà trước hết đem lại cho chúng ta ấn tượng đặc biệt về hình ảnh và công việc của ông lái đò Lai Châu, người mà nhà văn đã gọi là bạn trên tinh thần “qui thuận quần chúng một cách tự giác” (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Ông lái đò là hình ảnh một người lao động mà sông nước đã in dấu vào trong từng chi tiết ngoại hình : tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó... Tuổi tác không làm mất đi sức sống mạnh mẽ và lòng yêu mến gắn bó với công việc của ông. Bằng cách tạo ấn tượng đặc biệt về nhân vật từ ban đầu, nhà văn dẫn dắt chúng ta vào thế giới sông nước chứa đựng bao thử thách hiểm nguy nhưng có sức cuốn hút riêng với những người ưa thích phiêu lưu mạo hiểm. Bằng thủ pháp của điện ảnh, bằng ngôn từ của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên cả một thế giới sông nước sinh động : «nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Ấy vậy nhưng ông lão đã tuổi bảy mươi đã bao phen thể hiện tài năng vượt thác leo ghềnh, vượt qua thử thách hiểm nguy mà vẫn còn trẻ tráng, dẻo dai !

Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng khởi về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ với thần sông tướng đá bủa giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của mãnh tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn có những dòng mô tả chân dung bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình : “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này...”. Cuộc đối đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với “boongke chìm và pháo đài nổi” trong “cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn” có sức hấp dẫn đặc biệt. Có lẽ nhà văn đã hình dung ra không khí của những hội vật truyền thống khi miêu tả các cuộc đấu sức, đấu trí và đấu sự nhanh nhẹn giữa người và đá nước. Cuộc đấu có miếng, có mưu, cuối cùng phần chiến thắng thuộc về con người, bởi lẽ “Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Hình ảnh bình thường của người lao động, vật lộn với sóng nước đã được Nguyễn Tuân nâng lên ngang hàng danh tướng "biết mình biết ta trăm trận trăm thắng". Nhưng điều tác giả tô đậm nét hơn ở ông lái đò chính là chất nghệ sĩ toát lên từ công việc đối mặt với hiểm nguy đã trở thành bình thường. Ngay sau khoảnh khắc chiến thắng sức mạnh của thác đá, sóng dữ, thì "sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình". Đây mới chính là ông lái đò mang đậm nét Nguyễn Tuân. Con người chiến đấu với sông Đà dữ cũng chỉ là để mưu sinh, "ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác", nên những con người này cũng yêu mến dòng sông đã cho họ những "cá anh vũ, cá dầm xanh", những hầm cá hang cá "túa ra đầy tràn ruộng". Sông Đà dữ thì có "diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một", nhưng khi sông nước thanh bình, vẻ đẹp nên thơ gợi cảm của dòng sông lại hiện về nguyên vẹn.

Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông mang trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa của cha ông. "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân.", "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích...", "mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa"...Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một "cố nhân". Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà". Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống nảy lộc đâm chồi : "Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hoà vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà. Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.

Với Người lái đò sông Đà này, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình ở thể loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng, những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực. Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ yêu đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào con đường dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọng./.

Đề :" Hiện nay ở nước ta có nhiều cá nhân tổ chức gia đình thu nhận trẻ em lang thang, cơ nhỡ kiếm sống trong các thành phố, thị trấn về những mái ấm tình thương đề nuôi dạy, giúp các em học tập, rèn luyện, vương lên sống lành mạnh, tốt đẹp.
Hãy bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng đó

Mái ấm tình thương cho các cô nhi

Cô nhi viện Thánh An, Giáo phận Bùi Chu (Xuân Trường, Nam Định) hiện đang nuôi dưỡng hàng trăm trẻ bị bỏ rơi, mồ côi, khuyết tật, không phân biệt lương, giáo. Ban giám đốc Cô nhi viện, đội ngũ thiện nguyện nơi đây và bao tấm lòng từ thiện đang gắng hết sức mình để chăm sóc, dưỡng dục các cô nhi...


Cô Bùi Thị Kính-người phụ nữ độc thân tình nguyện phục vụ tại Cô nhi viện đưa chúng tôi thăm các phòng nuôi dưỡng 70 trẻ mồ côi, bị bỏ rơi khi mới sinh, hoặc khi được mấy tháng, vài năm tuổi. Phần lớn trong số các em đều khuyết tật như bại liệt, thần kinh, khoèo chân, sứt môi, các di chứng của chất độc da cam, có em giờ chỉ sống “đời sống thực vật”. Không quản nắng mưa, đêm ngày, gần 30 tình nguyện viên Cô nhi viện tận tình chăm chút các em từng bữa ăn, giấc ngủ, cốc nước, viên thuốc. Tùy khả năng từng em, Cô nhi viện cho các em học văn hóa, học nghề để giúp các em hòa nhập cộng đồng sau này.
Lặng lẽ bên các nhà nguyện, mái nhà Cô nhi viện lúc nào cũng ríu rít tiếng trẻ vui đùa, ê a đánh vần học chữ; tiếng dệt chiếu, làm hoa rộn ràng. Ai đến Cô nhi viện cũng cảm nhận được sức sống toát ra từ những tâm hồn trẻ thơ trong trắng, từ ngọn lửa nghĩa tình tràn ngập. Thành lập từ năm 1852, qua bao thăng trầm thời gian, Cô nhi viện vẫn lặng lẽ âm thầm che chở cho những hài nhi bị vùi dập sau những lỗi lầm hay chuyện đời ngang trái của những bậc sinh thành. Từ 1993 đến nay, Cô nhi viện đã đón nhận 201 trẻ mồ côi bị bỏ rơi, đã có 23 em được nhận làm con nuôi, 8 em lớn lên đi học đại học, 9 em học THPT, 22 em học từ mẫu giáo đến THCS, 6 em đã trưởng thành và đi làm ở Hà Nội, Nam Định, TP Hồ Chí Minh... Nhiều em khi lớn vẫn tình nguyện ở lại phục vụ (nay đã trở thành cụ) như các cụ Phạm Thị Mây, Nguyễn Thị Nhan, giờ đã 70 tuổi, gắn bó với Cô nhi viện từ khi còn đỏ hỏn. Em Phạm Thị Vui ở Cô nhi viện hơn chục năm, hiện đang học trường THPT Xuân Trường, khi được hỏi em về ước mơ, em cười rất hồn nhiên và trả lời: Em sẽ học tiếp rồi về phục vụ tại Cô nhi viện, em sẽ là người mẹ, người chị của các em nhỏ có cảnh đời như em ngày xưa. Vui còn hào hứng khoe: Em mới được đi tham quan Thủ đô Hà Nội, phần thưởng dành cho học sinh tiên tiến và được phát một chiếc xe đạp để đi học, em rất quý chiếc xe ấy, các em nhỏ ở đây, kể cả những em bại liệt, ai cũng thích xe đạp anh ạ!

Năm 1993, Đức cha Giuse Phạm Ngọc Oanh được cử làm Giám đốc Cô nhi viện Thánh An, khi đó Cô nhi viện nhà cửa dột nát, xung quanh toàn ao, bụi rậm hoang dại, các em sống chủ yếu nhờ vào 50-80kg gạo trợ cấp hàng tháng. Đức cha đã cùng với những người thiện nguyện củng cố và phát triển Cô nhi viện ngày một khang trang, đời sống các em được bảo đảm dần. Song bao khó khăn trước mắt vẫn đang thách thức Ban giám đốc và đội ngũ anh chị em thiện nguyện nơi đây. Với các trẻ khuyết tật, nhất là các em não liệt thì đòi hỏi phải có nhiều người chăm sóc, phục vụ, Cô nhi viện hiện đang rất cần những tình nguyện viên, có thể phục vụ trọn đời hoặc một thời gian ngắn. Mỗi tháng Cô nhi viện cần chi khoảng 15 triệu đồng bảo đảm lương thực-thực phẩm, đó là chưa kể các khoản phụ khác thì việc chỉ trông chờ vào nguồn thu chính từ việc sản xuất lương thực-thực phẩm và làm các nghề phụ khó bảo đảm tốt được đời sống cho các em. Lo lắng nhất là việc chữa trị cho các em lúc ốm nặng và khám, chữa bệnh, giám định HIV và các bệnh truyền nhiễm. Do bị bỏ rơi khi còn quá nhỏ nên các em thường mắc bệnh viêm phổi và sức đề kháng rất yếu. Hiện nay, có em bé hơn 2 tuổi bị bệnh não ống thủy mà các bệnh viện và các bác sĩ hiện nay đều bó tay không có cách chữa.

Khi chiều xuống, những người cha, người mẹ lại trở về với tổ ấm gia đình quây quần bên đàn con thơ. Trong giây phút hạnh phúc ấy có bao người biết nơi Cô nhi viện Thánh An các cô nhi đang kết thúc một ngày khi tiếng chuông bắt đầu ngân vang trên tháp giáo đường. Trên con đường nhỏ lát gạch lổn nhổn dẫn vào Cô nhi viện, cô Bùi Thị Kính bùi ngùi: “Chúng tôi chỉ ước con đường nhỏ này sẽ được bê tông hóa, các em rồi sẽ có xe lăn, đàn học âm nhạc, máy trợ thính, có sách vở để đọc, để viết...”. Tâm huyết của người phụ nữ đã hy sinh trọn đời vì hạnh phúc của những trẻ thơ có cảnh đời bất hạnh giản dị và xúc động biết bao. Cô nhi viện Thánh An đang dự định xây dựng củng cố, xây mới các cơ sở hạ tầng; hoàn thiện trang thiết bị phục hồi chức năng, hồi sức cấp cứu; xây trường dạy trẻ khiếm thính, khiếm thị; xây nhà dưỡng lão cho những người nghèo khó không nơi nương tựa... Song, để biến những dự định trên thành hiện thực thì Cô nhi viện rất cần những trái tim từ thiện hảo tâm giúp đỡ...

Đề 1 bài viết số 2 SGK lớp 12 năm nay : Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để giảm thiểu tai nạn giao thông.
*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-
*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-*-
-Hiện nay an toàn giao thông là một vấn đề lớn, được cả xã hội quan tâm. Đi khắp các nẻo đường gần xa khẩu ngữ “An toàn giao thông là hạnh phúc cho mọi nhà” như lời nhắc nhở, cũng là lời cảnh báo với những người đang tham gia giao thông, hãy chấp hành luật giao thông để đem lại an toàn cho mình và hạnh phúc cho gia đình mình.

Nhưng hàng năm số vụ tai nạn giao thông vẫn không hề suy giảm, ngược lại nó còn tăng lên rất nhiều. Cứ mỗi năm, Việt Nam có tới gần một nghìn vụ tai nạn giao thông, nhiều nhất là xe máy. Nguyên nhân chính gây ra các vụ tai nạn phần lớn là do ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân: uống rượu bia vượt quá nồng độ cho phép khi lái xe, không đội mũ bảo hiểm ở phần đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm, chở trên ba người phóng nhanh vượt ẩu…

Một mặt, đó là chất lượng đường sá kém và nguyên nhân là do sự tắc trách của các cơ quan xây dựng, ăn hối lộ, rút xén vật liệu. Mặt khác chúng ta phải lên án những kẻ chỉ vì các lợi ích cá nhân mà quên đi tính mạng, sự an toàn của người đi đường. Trên đường quốc lộ, đường lớn vẫn còn những kẻ rải đinh xuống lòng đường để thu lợi bởi những đồng tiền kiếm được từ vá xe, thay lốp. Họ không hiểu hết được sự nguy hiểm của việc làm đó, với tốc độ cao như vậy những người tham gia giao thông khi bị thủng săm đột ngột sẽ bị văng người ra khỏi xe và nguy cơ tử vong là rất lớn.
Theo thống kê, những người thiệt mạng do tai nạn giao thông chủ yếu là đàn ông, trụ cột của gia đình. Những người vợ xót xa khi mất đi người chồng thân yêu, đứa con nghẹn ngào trong dòng lệ vì tới đây sẽ chẳng còn được vòng tay người cha âu yếm vỗ về, bảo ban dạy dỗ trên đường đời. Họ mang đến sự thương tâm cho toàn xã hội.
Hàng năm, nhà nước đã bỏ ra hàng tỉ đồng để nâng cấp các cơ sở giao thông, đường sá cầu cống phục vụ cho việc đi lại an toàn ở mọi nơi. Nhưng số tiền đó lại không được dùng hết, vậy thì nó rơi *** vào đâu? Phải chăng, số tiền đó đã rơi vào túi những kẻ rút lõi công trình, rút lõi vật tư để làm giàu cho mình. Đó là những kẻ vô lương tâm vì lợi ích bản thân mà quên đi sự an toàn chung cho xã hội.

Một vấn đề cũng đang gây sự chú ý và bị lên án rất nhiều đó là tình trạng đua xe của giới trẻ, tầng lớp thanh niên - những người chủ tương lai đất nước. Đó là những thanh niên đua đòi với bản tính “con nhà giàu” cùng với sự rủ rê của bạn bè, họ sẵn sàng đánh cược với tính mạng của mình. Nhìn những chiếc xe SH, @, FX500 phi như bay trên những con đường lớn ta không khỏi xót xa cho họ. Chỉ vì quá được nuông chiều, thiếu sự bảo ban của cho mẹ mà họ đã phải trả giá đắt. Những tai nạn xảy ra là điều chắc chắn, nhẹ thì sứt đầu mẻ trán, gẫy tay gẫy chân. Nặng thì họ phải mãi mãi rời xa cuộc đời. Lý do vì đâu cũng là ở nhận thức của thanh niên. Họ chưa biết suy nghĩ đúng về những cái lợi hại của việc mình đã làm. Những bậc cha mẹ khi con mình xảy ra tai nạn, nhận ra thì đã quá muộn, tại sao họ sắm cho con những chiếc xe thật tốt, phân khối thật lớn để chúng đi đua. Họ làm ra nhiều tiền rồi cũng nhận ra khi mất đứa con thì tiền bạc cũng chẳng giải quyết được gì. Họ hối hận vì tại sao ngay từ đầu không bảo ban con cái mình.

Tất cả những nguyên nhân gây ra tai nạn đều bắt nguồn từ ý thức của người dân. Nếu như họ biết quý bản thân mình, biết tuân thủ luật lệ giao thông thì sẽ chẳng có những điều thương tâm và đáng tiếc. Hồi chuông cảnh báo luôn rung lên, nhắc nhở mọi người hãy biết chấp hành giao thông, vì sự an toàn của bản thân và xã hội.


Em nêu thêm những con số này vào bài:

-Trong vòng 10 năm qua, số vụ tai nạn giao thông đã tăng gấp 4 lần. Theo điều tra chấn thương liên trường (VMIS), trong năm 2001 có 4.100 trẻ chết do tai nạn giao thông, tương đương với 11 trẻ chết 1 ngày. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em trai gấp 2 lần tỷ lệ này ở trẻ em gái. Trong khi đó có 290.000 trẻ bị thương do tai nạn giao thông cũng trong 2001, tương đương với 794 trẻ/ngày. Tai nạn giao thông là nguyên nhân tử vong hàng đầu của trẻ em từ 15 tuổi trở lên.

Bà Isabelle Bardem, Trưởng phòng Phòng chống Tai nạn Thương tích Trẻ em của UNICEF nói “Tai nạn giao thông có ảnh hưởng nặng nề đối với trẻ Việt Nam. Không chỉ rất nhiều trẻ trực tiếp bị tai nạn giao thông gây tử vong hoặc thương tật nặng nề, còn có biết bao trẻ khác bị ảnh hưởng gián tiếp bởi cha, mẹ các em bị tai nạn giao thông cướp đi sinh mệnh hoặc tàn tật”.

Phần lớn trẻ 0-9 tuổi chết là người đi bộ. Đa số trẻ 10-14 tuổi chết khi đi xe đạp trong khi tất cả các ca tử vong ở đối tượng 15-19 tuổi là người đi xe máy.

Một số các yếu tố sau đây có thể giải thích được tình trạng tai nạn giao thông ở mức cao cả ở trẻ em và trong toàn dân:

- Sự hiểu biết còn hạn chế về an toàn giao thông đường bộ và số người chết do tai nạn giao thông
- Sự hiểu biết còn hạn chế về quy định giao thông
- Sự hiểu biết còn hạn chế về các hành vi lái xe an toàn
- Số đông dân chúng còn có quan niệm răng tai nạn nói chung và tai nạn giao thông nói riêng là do số mệnh con người quyết định.
- Họ không thấy rằng phần lớn tai nạn giao thông là có thể phòng tránh được.
- Môi trường giao thông không an toàn và cơ sở hạ tầng giao thông nghèo nàn. Ví dụ, có rất ít các biển báo giao thông và các khu vực an toàn cho người đi bộ.
- Việc sử dụng mũ bảo hiểm là rất ít mặc dù có nhiều mũ bảo hiểm sản xuất trong nước với chất lượng tốt.
- Việc chấp hành luật lệ giao thông còn kém.

Từ năm 2001, UNICEF hỗ trợ Chính phủ Việt Nam giảm thiểu số trẻ em chết do các tai nạn thương tích, đặc biệt là thương tích do tai nạn giao thông vì đó là nguyên nhân tử vong lớn thứ 2 ở trẻ một tuổi trở lên sau đuối nước.

Ở cấp quốc gia UNICEF cùng với Bộ Y tế, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em và Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia đã triển khai các hoạt động nhằm tăng nhận thức về phòng tránh tai nạn và an toàn giao thông. Áp phích, tờ rơi về an toàn giao thông và sử dụng mũ bảo hiểm đã được phân phát rộng rãi trên toàn quốc trong Sea Games 22 vừa qua.

UNICEF cũng vận động để giúp cho công chúng hiểu rõ hơn về luật giao thông và tăng cường nghiêm chỉnh chấp hành luật. UNICEF cũng thúc đẩy sử dụng mũ bảo hiểm đặc biệt mũ bảo hiểm cho trẻ, và các hành vi lái xe an toàn trong thanh niên. Những hành động nguy hiểm thường gặp của thanh niên như lạng lách, đua xe máy là nguồn gốc của nhiều tại nan giao thông.

Các hoạt động sau đang được triển khai nhằm giảm thiểu tai nạn thương tích cho trẻ:

- Đặt biển báo giới hạn tốc độ, làm gờ giảm tốc, đèn hiệu giao thông, vạch dành cho người đi bộ ở khu vực có đông trẻ em
- Thực hiện chương trình giáo dục phòng chống thương tích trong trường học giúp học sinh có kỹ năng về giao thông để phòng tránh tai nạn khi đi bộ, đi xe đạp hay xe máy
- Tổ chức các cuộc thi an toàn giao thông cho mọi người đặc biệt là thanh thiếu niên.
- Hỗ trợ người dân thực hiện các hoạt động thông tin truyền thông phù hợp với điều kiện địa phương.
- Huấn luyện cho các tuyên truyền viên đi đến từng hộ gia đình tuyên truyền về phòng chống tai nạn bao gồm cả các tai nan giao thông.
- Hỗ trợ các xã xây dựng sân chơi an toàn cho trẻ để trẻ có thể chơi an toàn xa đường giao thông.
- Tổ chức các cuộc hội thảo cho các cấp lãnh đạo xã về việc thi hành pháp luật bao gồm luật an toàn giao thông.
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United

Thay đổi nội dung bởi: Sleepingchild, 08-04-2009 lúc 12:48 AM
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Ai đã đặt tên cho dòng sông? ban đầu có tên là Hương ơi, e phải mày chăng? là bài bút kí do nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào ngày 4 ngày 1 năm 1981, và được in trong tập sách cùng tên vào năm 1984.

Một phần bài bút kí[1] đã được đưa vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam, và được đánh giá là một đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương[2]
Giới thiệu
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bút kí đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế.

Trong sách Tuyển chọn & giới thiệu Ngữ văn...[3] có đoạn phân tích, tóm tắt như sau:

Vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v...Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hóa phong phú và một vốn ngôn từ giàu có và đậm chất thơ của tác giả.

Đọc những trang viết về Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường (trong đó có bài Ai đã đặt tên cho dòng sông?), nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, đã nhận xét:

Nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên. Tôi muốn đi xa hơn, tìm một căn nguyên thấm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mỹ mãn của những trang viết ấy: phải chăng ở đây đã có một sự hòa hợp, tương giao, linh ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, nhạy cảm, tinh tế. Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa không dễ một lần thứ hai viết được như thế. Ngỡ như không khác được: viết về sông Hương là phải vậy, viết về “văn hóa vườn” ở Huế là phải vậy. Đó là những áng văn, câu chữ được chọn lựa cân nhắc kỹ càng, vì hình ảnh được sáng tạo đẹp đẽ, vì cảm xúc phong phú bất ngờ, mới mẻ... [4]

Và theo Lê Uyển Văn, thì:

Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những Bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu...đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời. Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình...[5]


[sửa] Trích tác phẩm
Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc Ðại Việt qua những thế kỷ trung đại. Thế kỷ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
Sông Hương là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự biến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nàng đem áo ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo lục điều với loại vải vân thưa màu xanh tràm ***g lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Ðấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông...
Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, "dòng sông trắng - lá cây xanh" trong cái nhìn tinh tế của Tản Ðà, từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên "như kiếm dựng trời xanh" trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bãng lãng trong hồn thơ bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả "Từ ấy".
Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẫu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng: - Ai đã đặt tên cho dòng sông?...
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United

Thay đổi nội dung bởi: Sleepingchild, 08-04-2009 lúc 12:48 AM
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Chí Phèo

Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.
Phân tích

* Tha hoá : là biến đổI thành cái khác. Trong truyện Chí Phèo, tình trạng con ngườI bị tha hoá có thể hiểu ở hai phương diện. Một là không được sống như bản chất ngườI của mình: Chí Phèo vốn là một nông dân lương thiện mà phảI sống như một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hai là những sản phẩm do mình tạo ra lạI trở thành xa lạ, thậm chí thù địch vớI chính mình: những ngườI nông dân như Chí Phèo đã xây dựng nên làng Vũ ĐạI cần lao và lương thiện, nhưng cái làng ấy không chấp nhận Chí Phèo quay về, thậm chí còn thù ghét và sợ hãi anh (khi Chí Phèo chết, cả làng cảm thấy mừng rở).

* Bi kịch : ở đây chỉ con ngườI rơi vào một tình huống bi thảm, không lốI thoát, nhưng ngườI ta chỉ cảm thấy tình huống đó khi ý thức được. Chí Phèo tuy bị tha hoá từ lâu, nhưng trước khi gặp thị Nở, anh sống triền miên trong những cơn say và chưa thấy mình khổ, nghĩa là chưa thật sự có bi kịch nộI tâm. Cho đến lúc bị ốm, gặp thị Nở, Chí Phèo tỉnh ra, mớI ý thức được tình trạng tha hoá của mình và bi kịch bắt đầu diễn ra trong đờI sống nộI tâm của anh.
* a.Giá trị tố cáo hiện thực – nhât vật bá Kiến:

* Trong truyện Chí Phèo, Nam Cao có phân tích các quan hệ xã hộI nông thôn miền Bắc nước ta trước Cách mạng tháng Tám 1945. Quan hệ đó gồm hai mâu thuẫn :

o Mâu thuẫn thường xuyên trong nộI bộ bọn cường hào, địa chủ thống trị. Bọn chúng như một đàn cá tranh mồi. MồI thì ngon và bè nào cũng muốn ăn, do đó, chúng luôn luôn rình cơ hộI để trị nhau, muốn cho nhau lụn bạI để cườI lên đầu lên cổ nhau. Mâu thuẫn khá phổ biến, gay gắt ngày có liên quan đến số phận những binh Chức, Năm Thọ, đặc biệt là Chí Phèo.

o Mâu thuẫn giai cấp đốI kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị vớI ngườI nông dân lao động bị áp bức bóc lột được tác giả tập trung thể hiện một cách sâu sắc.

* Nhân vật tiêu biểu cho gia cấp thống trị là bá Kiến được Nam Cao vạch trần bộ mặt tàn ác, xấu xa của hắn. Đây là một tên cường hào cáo già trong “nghề” thống trị dân đen, được khắc hoạ qua những chi tiết ngoạI hình thật độc đáo, từ giọng quát rất sang, lốI nói ngọt nhạt đến cái cườI Tào Tháo. Bằng cách để nhân vật độc thoạI, tự phơi ra những tính toán, thủ đoạn, âm mưu thâm độc trong việc đàn áp, thống trị tầng lớp nông dân, tác giả đã lột trần bản chất gian hùng của bá Kiến : mềm nắn rắn buông, sợ kẻ cố cùng liều thân, bám thằng có tóc, một ngườI khôn ngoan thì chỉ bóp đến nửa chừng, ngấm ngầm đẩy ngườI ta xuống sông, nhưng rồI lạI dắt nó lên để nó đền ơn… Bản chất gian hùng ấy của bá Kiến tập trung đầy đủ trong cái cách đốI xử của hắn vớI Chí Phèo.


b.Giá trị nhân đạo – nhân vật Chí Phèo :

* Trước hết, Chí Phèo là một sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột ở nông thôn nước ta trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đó là hiện tượng ngườI lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh dần dần bị tha hoá. Vì hờn ghen vớ vẫn. Lí Kiến đẩy anh canh điền vào nhà tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay lão cường hào thâm độc để giết anh chết phần “ngườI” trong con ngườI Chí Phèo, biến Chí thành Phèo, biến ngườI nông dân lương thiện thành quỷ dữ. Chi tiết kết thúc tác phẩm đầy ngụ ý, biết đâu lạI chẳng có một “Chí Phèo con” bước từ cái lò gạch cũ vào đờI để “nốI nghiệp bố” Hiện tượng Chí Phèo chưa thể hết khi xã hộI tàn bạo vẫn không cho con ngườI được sống hiền lành, tử tế, vẫn còn những ngườI dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tộI lỗi. Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là vạch ra được cái quy luật tàn bạo, bi thảm này trong cái xã hộI tốI tăm của nông thôn nước ta thờI đó.

* Nam Cao đã cho thấy tất ca nỗI thống khổ ghê gớm của nhân vật Chí Phèo. NỗI thống khổ đó không phảI là không nhà không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích… mà chính là Chí Phèo bị xã hộI vằm nát cả một mặt ngườI, cướp đi linh hồn ngườI, phảI sống kiếp sống tốI tăm của con vật lạ. Đó chính là nỗI thống khổ của cá thể sinh ra là ngườI nhưng lạI không được làm ngườI và bị xã hộI từ chốI, xua đuổI. Tình trạng bi thảm này được tác giả minh chứng trong đoạn mở đầu giớI thiệu một chân dung, một tính cách “hấp dẫn”, vừa hé cho thấy một số phận bi đát. Dù say rượu đến điên khùng, Chí Phèo vẫn như cảm nhận thấm thía “nông nỗI” khốn khổ của thân phận mình. Anh chửI trờI, chửI đờI rồI chuyển sang chửI tất cả làng Vũ ĐạI, cuốI cùng anh chửI thằng cha con mẹ nào đẻ ra cái thằng Chí Phèo. Không ai chửI lạI anh vì rất đơn giãn là không ai coi anh như con người.

* Nam Cao có vài cái nhìn đầy chiều sâu nhân đạo khi đi vào nộI tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của những con ngườI khốn khổ. Chí Phèo đến vớI thị Nở trong một đêm trăng say rượu. Như điều kì diệu là thị Nở không phảI chỉ khơi dậy bản năng ở gã đàn ông say, mà lòng yêu thương mộc mạc chân thành, sự chăm sóc giản dị của ngườI đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức tỉnh Chí Phèo. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá thậm chí bị huỷ hoạI của Chí Phèo, phần bản chất lương thiện ngày thường bị lấp đi vẫn le lói một ánh sáng lương tri, sẽ bừng sáng lên lúc gặp cơ hội. Lúc được thị Nở chăm sóc, Chí Phèo thật sự ngạc nhiên vì xưa nay, nào có thấy ai tự nhiên cho cái gì, mà hắn phãi doạ nạt hay là giật cướp mớI có được. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, anh bâng khuâng nghe tiếng chim hót (…) tiếng cườI nói của những ngườI đi chợ, thì niềm ao ước có một gia đình nho nhỏ trỗI dậy trong lòng anh. Nam Cao viết : “… hắn có thể tìm bạn được, sao lạI chỉ gây kẻ thù ? (…) Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà vớI mọI ngườI biết bao!”

* Còn thị Nở, một ngườI phụ nữ bị ngườI làng xa lánh như tránh một con vật nào rất tởm, khi được yêu thương thì tình yêu làm cho có duyên, chị biết lườm, biết thẹn thùng, tiếng “vợ chồng” thấy ngường ngượng mà thinh thích. Nam Cao tự hỏI : “Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con ngườI khốn nạn ấy chăng?”

* VớI một tình cảm nhân đạo sâu sắc, Nam Cao đã phát hiện phần sâu kín đang âm ỉ cháy trong tâm hồn của kẻ bị tha hoá là Chí Phèo, của kẻ u mê là thị Nở : họ luôn tha thiết mong được thương yêu. được cảm thông và được sống hoà nhập vớI mọI người.

* Nhưng con đường trở lạI làm ngườI lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo bị chặn đứng lại. Bà cô của thị Nở dứt hoát không cho cháu bà đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lạI đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ. Bà ta cũng giống như mọI ngườI, quen coi Chí Phèo là “ con quỷ dữ” từ lâu rồi. Thế là Chí Phèo bị rơi vào một bi kịch tâm hồn đau đớn, bi kịch của con ngườI không được nhận làm người. Ngay trong phút giây tuyệt vọng đó, anh xách dao đến nhà Bá Kiến, không chỉ vì say mà chủ yếu vì lòng căm thù vẫn âm ỉ lâu nay trong đầu óc u tốI của anh giờ đây đã bừng lên. Những lờI lẽ cuốI cùng của Chí Phèo bộc lộ tất cả bi kịch nộI tâm đau đớn đó : “Tao muốn làm ngườI lương thiện (…) Không đựơc ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là ngườI lương thiện được nữa. Biết không !”. Sau khi đâm chết Bá Kiến, Chí Phèo chỉ còn một cách là tự sát. Thế là trước đây, để bám lấy sự sống, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây ý thức về nhân phẩm thức dậy, linh hồn đã trở về, Chí Phèo lạI phảI tự huỷ diệ cuộc sống của mình.

c.Giá trị nghệ thuật :
Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện nghệ thuật viết truyện độc đáo cùa Nam Cao.

* Trước hết là cách xây dựng nhân vật điển hình. Bá Kiến, Chí Phèo vừa tiêu biểu cho những loạI ngườI có bề dầy trong xã hộI, vừa là những cá tính độc đáo và có sức sống mạnh mẽ. Tâm lí nhân vật được miêu tả thật tinh tế sắc sảo, tác giả có khả năng đi sâu vào nộI tâm để diễn tả những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.

* Cách dẫn dắt tình tiết toàn truyện thật linh hoạt, không theo trật tự thờI gian mà vẫn rành mạch, chặt chẽ, lôi cuốn : cảnh Chí Phèo trở về làng, lai lịch Chí Phèo, cảnh Chí Phèo gây sự, nằm vạ ở nhà Bá Kiến, từ tên cường hào bá Kiến dẫn tớI các tên sừng sỏ khác ở làng Vũ ĐạI, rồI Chí Phèo biến thành tay chân đắc lực cho Bá Kiến, bị tha hoá…

* Ngôn ngữ thật tự nhiên sống động, khẩu ngữ được sử dụng nhuần nhị, mang hơi thở của đờI sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ tác giả, có khi vừa là ngôn ngữ nhân vật.

* Giọng văn biến hoá, không đơn điệu. tác giả như nhập vai vào từng nhân vật, chuyển từ vai này sang vai khác một cách linh hoạt, tự nhiên.



III. Kết luận:


- Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của Nam Cao đốI vớI những ngườI khốn khổ.

- Chí Phèo còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những ngướI bất hạnh. Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm ngườI của những con ngườI kương thiện. Họ phảI được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tốI của xã hộI đẩy họ vào chổ cùng khốn, bế tắc, đầy bi kịch xót xa…

Phân tích nhân vật Chí Phèo tác phẩm cùng tên của Nam Cao để làm nối bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.

A-GỢI Ý CỤ THỂ

(1) Chí Phèo là một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ. Đó là một con người cụ thể. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

(2) Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo - Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện Thị Nở đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch dù trong phút chốc.

(3) Ý nghĩa khái quát của nhân vật Chí Phèo. Chí Phèo là đại diện cho bi kịch của người nông dân bị tha hóa dưới xã hội cũ. Mặc dù thế ở họ luôn âm ỉ một sự phản kháng mãnh liệt, một khát vọng rất đẹp: Tìm về lương thiện.

(4) Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm lí (sắc sảo nhất) nhân vật Chí Phèo là đoạn từ “khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng…đói rét và ấm no”.
- Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
- Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.
- Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
+ Cái diễn biến tâm lí của một kẻ từ lưu manh đang hướng về lương thiện.

Hình tượng nhân vật Bá Kiến.

(5) Bá Kiến là một nhân vật điển hình cho tầng lớp địa chủ, cường hào ở nông thôn thời bấy giờ: độc ác, tìm mọi cách để bóc lột lường gạt nông dân, sẵn sàng cấu kết với nhau để bóc lột người nghèo, nhưng cũng tìm cách xâu xé, hãm hại nhau.

(6) Bá Kiến đối xử với Chí Phèo hết sức nham hiểm, tàn nhẫn, khi thì dọa nạt, khi thì mềm mỏng ngọt ngào. Chính hắn đã biến Chí Phèo từ một con người lương thiện trở thành lưu manh. Cũng chính hắn cũng biến Chí Phèo trở thành một tên tay sai đắc lực cho hắn tiêu diệt Đội Tảo đe dọa dân làng Vũ Đại…

Cách tổ chức, dẫn dắt tình tiết của tác giả trong truyện Chí Phèo.
Chí Phèo là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, bị người nhặt rồi đi khắp nơi. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh ghen đưa đi tù. Trở về làng Vũ Đại Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buối sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một Chí Phèo con sắp ra đời.
Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Giọng điệu kể chuyện của tác phẩm Chí Phèo: Tác giả đã nhập vai các nhân vật của mình hết sức nhuần nhuyễn. Nhiều đoạn là lời kể của tác giả nhưng người đọc có cảm tưởng như những đoạn bộc bạch, độc thoại nội tâm của nhân vật.



Bài giải của bạn: saodoingoi_7589 10:03:14 Ngày 07-12-2007
Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá:Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi để người ta đáp lại mình nhưng không ai đáp lại cả ,bởi họ không chấp nhận hoặc không muốn dây với thằng say rượu, kẻ lưu manh,1thằng cố liều thân như hắn. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả.Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức yỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo dược tập trung miêu tả qua tâm trạng bi kịch . Đó là 1 buổi sáng thật trong lành ,bao nhiêu âm thanh êm đềm ,bình dị , thân thiết đã dội vào lòng thức tỉnh của con người trong Chí Phèo . Tất cả những hình ảnh ,âm thang ấy gợi nhắc nhưng giấc mơ xa xôi 1 thời (căn nhà nhỏ, chồng cuốc mướn, vợ dệt vải)đã làm CP cảm thấy cô độc, nhất là sợ cô độc khi đã già yếu . Như vậy , tình yêu thương mộc mạc ,chân thành của TN, người đàn bà đã đánh thức cái bản chất lương thiện của CP thức tỉnh , sau bao ngày chìm đắm trong cơn say ,sau bao ngay hung dữ , hoang dại như 1 con thú dưới hình người . Những âm thanh bình thường , quen thuộc hôm nay bông vang động, sâu xa trong CP trở thành tiếng gọi của sự sống , của cuộc đời lương thiện vẳng đến dôi tai lần đầu tỉnh tấovf nhìn lại quá khứ xa xôi , đau khổ, tương lai đói rét ốm đau và cô độc mới nhận ra tình trangj tuyệt vọng của thân phận mình.

Chi tiết bát cháo hành .

CP ngạc nhiên ,xúc động khi TN bê bát cháo hành sang cho CP.Hương vị cháo hạng là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn ,có thật lần đầu tiên dành cho hắn . CP lại biết khóc, biết cười như một con người. CP rưng rưng. Nếu không còn khả năng khóc, CP không còn khả năng lương thiện, nghĩa là lương tri đã chết hẳn trong Chí.Sống trong làng Vũ Đại khô héo tình người , giọt nước mắt tronh Chí tưởng đã khô cạn . Hoá ra nó chỉ bị vùi lấp . Trong sâu thẳm lòng Chí ,nó vẫn còn cháy len lỏi , âm thầm.Chính vì vậy, CP hồi hộp đượ nhận trở lại cái hạnh phúc bằng phẳng của con người lương thiện . CP tin TN sẽ mở đường cho hắn .Nhưng khi TN đột ngột "" trở mặt"" , CP ban đầu chưa hiểu vì CP đang say với nguyện ước làm người . Khi chợt nhận ra, CP vơ rượu uống nhưng càng uống càng tỉnh và hắn càng thấm thía nỗi đau thân phận con người,càng thấm thía tội ác đã cướp đi quyền làm người của mình , cướp đi cả bộ mặt lẫn tâm hồn người nên thay vì đến nhà TN , CP đến nhà BK vì lòng căm thù bấy lâu nay cháy bùng lên làm cho CP vô cùng tỉnh táo . Hành động này quá bất ngòq với BK , với cả lang Vũ Đại . Ai cũng coi đây là vụ giết người dữ dội của con quỷ dữ CP. Trước đây để tồn tại , CP đã bán linh hồn đi cho quỷ dữ nên mọi người đã quen coi CP là quỷ dữ , nhưng hôm nay tâm hồn nhười đã trở về, mọi người cũng không nhận ra.

Một CP tỉnh đã giết chết 1 CP say . CP bằng xương , bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là CP đòi quyền sống , đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về , CP không bằng lòng sống như trước nữa . Và CP chết trong bi kịck đau đớn , chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây khong thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United

Thay đổi nội dung bởi: Sleepingchild, 08-04-2009 lúc 12:49 AM
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên

Chế Lan Viên là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám với tập thơ “Điêu tàn”. Đi theo cách mạng rồi đi kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên gần như im lặng. Hoà bình lập lại (1954), ông mới có thơ hay. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” rút trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa” (1960) là một bài thơ thời sự đáp lại lời kêu gọi của Tổ quốc đi khai hoang Tây Bắc. Viết về một nhiệm vụ lịch sử nhưng nhà thơ không thể hiện một cách chung chung mà viết với một xúc cảm chân thành và cuồng nhiệt. Một vùng đất tươi đẹp và anh hùng của Tổ quốc hiện lên thành hình tượng thơ lấp lánh ánh sáng của trí tuệ. Tâm hồn của thi sĩ đã hoá thành con tàu mộng tưởng, trở về với nhân dân mà cũng là trở về với chính lòng mình.


1 Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru (ca dao)
2 Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng (ca dao)

Chế Lan Viên mở đầu bài thơ bằng lối tự vẫn bộc lộ sự trăn trở của nhà thơ trước một nhiệm vụ trọng đại của đất nước:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”

Chế Lan Viên nhạy bén với những nhiệm vụ chính trị của Đảng và của dân tộc. Tác giả đã chuyển nhiệm vụ chung (khai hoang Tây Bắc) thành nhiệm vụ riêng của từng con người, sâu hơn nữa là nhiệm vụ của “tâm hồn ta”.

“Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?”

Đây là con tàu của mộng tưởng (chưa hề có đường tàu lên Tây Bắc), biểu tượng này thích hợp với hình ảnh ra đi, gợi những ước mơ lãng mạn:

“Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô, tàu đói những vành trăng”

Tác giả còn thôi thúc người ra đi khai hoang Tây Bắc chẳng những vì Tây Bắc mà còn vì mở lối nhở hẹp của đời sống, mở lối cho sáng tạo, cho thơ:

“Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”.

Nhà thơ đã biến cuộc ra đi thành cuộc trở về. Trở về “nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất”. Và tha thiết hơn nữa “cho con về gặp lại Mẹ yêu thương”. Và thiêng liêng hơn nữa:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngưnừg bỗng gặp cánh tay đưa”

Những so sánh bất ngờ, những chi tiết bất chợt khiến cho dòng suy nghĩ không khô khan mà lung linh, biến hoá.

Nhà thơ hồi tưởng lại những kỉ niệm sâu sắc trong kháng chiến với nhân dân Tây Bắc. Những kỉ niệm hiện lên như một cuộn phim. Hình ảnh của nhân dân được nhà thơ gọi một cách thân thiết, ruột rà. “Con nhớ anh con, người anh du kích”, “Con nhớ em con, thằng em liên lạc”, “Con nhớ mế, lửa hồng soi tóc bạc”. Qua mỗi chi tiết đầy xúc động, nhà thơ muốn nói với chúng ta nhân dân Tây Bắc anh hùng mà tình nghĩa.

Rồi Chế Lan Viên dẫn đến triết lí. Hiện thực cũng chỉ là cái cớ để cho nhà thơ triết lí:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”

Người đọc thán phục Chế Lan Viên vì đã phát hiện ra được quy luật của tình cảm, của đời sống tâm hồn con người. Nhà thơ dẫn dắt người đọc đến triết lí bằng nhạc và bằng hình:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ”

Điệp từ “nhớ” vừa diễn tả sự da diết của tình cảm, vừa tăng cường nhạc điệu cho câu thơ. Về hình hoạ, trong những câu thơ trên, nhà thơ áp sát ống kính vào từng khuôn mặt thân thương, ruột rà để biểu dương. Đến đây, nhà thơ lùi ống kính ra xa để thu hình ảnh của núi rừng Tây Bắc với những “bản sương giăng”, với những “đèo mây phủ”, hình ảnh huyền ảo của núi rừng Tây Bắc mà cũng là hình ảnh sương khói của hoài niệm. Và nhà thơ nói với lòng mình mà như tìm sự đồng cảm của mọi người:

“Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”

Câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhớ mấy câu thơ của Hồng Nguyên:

“Chúng tôi đi
Mang cuộc đời lưu động
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng
Đã nghĩ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau”
(Nhớ)
Nhưng Chế Lan Viên không dẫn tới tự sự mà dẫn đến triết lí:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”

Hai câu thơ được kết cấu theo lối đối (Khi ta ở - Khi ta đi) đã diễn tả hai trạng thái của tâm hồn con người và những điệp từ, điệp ngữ tạo âm hưởng cho ý thơ triết lí vốn dễ khô khan. Từ sự chiêm nghiệm của chính mình, tác giả đã phát hiện một quy luật về tình cảm có giá trị khái quát. Nhà thơ đã nói hộ cho chúng ta về sự gắn bó giữa con người với quê hương xứ sở, với những miền đất xa lạ mà chúng ta đã từng sống. Cái cụ thể là “đất” đã hoá thành cái trừu tượng là “tâm hồn”. Hai câu thơ rất là Chế Lan Viên!

Từ triết lí, nhà thơ bỗng chuyển sang diễn tả những rung động cụ thể, riêng tư. Tứ thơ chuyển lạ, nhưng không gãy đổ vì vẫn liền mạch tư duy:

“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.”

Khổ thơ như một rẽ ngoặt đường rừng bày ra cảnh quan mới lạ. Nhưng rồi ta vẫn nhận ra giọng điệu của Chế Lan Viên. Vẫn là từ xúc cảm, hình ảnh cụ thể dẫn đến những suy ngẫm triết luận. Lại tô đậm thêm cảm xúc riêng tư nên câu thơ trở nên xôn xao. “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”, những so sánh rất lạ, lấp lánh chất trí tuệ chứ không phải tình cảm thuần khiết. Xét đến cùng thì cũng không phải là nỗi niềm riêng, dù nhà thơ có nói thật tha thiết “Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng”; mà là “riêng chung” nói như Xuân Diệu. Cái lấp lánh của màu sắc “cánh kiến hoa vàng” như “chim rừng lông trở biếc” là cái lấp lánh của trí tuệ. Tác giả như phát hiện ra mỗi quan hệ khăng khít của sự vật như mùa đông với cái rét, như mùa xuân với “chim rừng lông trở biếc”. Và cái da diết của nhạc điệu, của hình ảnh, của màu sắc để sửa soạn cho một triết lí mới:

“Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”

Mỗi người đều tự cảm nhận, thấm thía với triết lí. Và như thế là tác giả đã đạt đến chiều sâu của chủ đề “Tiếng hát con tàu”.

Rồi nhà thơ lại giục giã lên đường xây dựng quê hương Tây Bắc. Tất cả những hồi tưởng, những hoài niệm, những triết luận là để nhằm đến việc thực hiện nhiệm vụ lịch sử này:

“Đất nước gọi hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”

Xây dựng quê hương Tây Bắc cho “mẹ”, cho “em” thì còn ai là không tha thiết, không nhiệt tình?

Riêng đối với nhà thơ thì Tây Bắc còn là nguồn cảm hứng, nguồn sáng tạo, nguồn thơ, là giá trị tinh thần thiêng liêng nên cuộc “trở về” có ý nghĩa biết bao!

“Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.”
Tác giả kết thúc “Tiếng hát con tàu” bằng những ý tưởng lãng mạn thật đẹp và tình yêu nồng nàn (rộng là tình yêu cuộc sống và hẹp là yêu em):
“(…) Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”

Chế Lan Viên khi tâm hồn đã đổi mới, nhà thơ nhạy cảm với những nhiệm vụ của cách mạng. Khi đất nước có nhu cầu mở mang Tây Bắc, Chế Lan Viên đã có thơ ứng chiến và đáng quý là đã có thơ hay, vượt lên trên thơ minh hoạ tầm thường. Chất trí tuệ mẫn tiệp vốn có của ông lại được bồi đắp thêm những tình cảm mới mẻ, cách mạng khiến cho “Tiếng hát con tàu” có sức hấp dẫn. Chỉ tiếc là một tài năng ngôn ngữ siêu phàm như ông mà lại lạm dụng những từ có ý nghĩa thiêng liêng, như từ “mẹ” chẳng hạn, khiến người đọc thoáng qua chút hoài nghi về cảm xúc chân thật của nhà thơ. Một thời, biết bao học sinh, sinh viên, trí thức đã mê thơ ông, say sưa với những phát hiện triết lí trong thơ ông:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn.”
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United

Thay đổi nội dung bởi: Sleepingchild, 08-04-2009 lúc 12:50 AM
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Đề bài : Phân tích nghệ thuật độc đáo của truyện ngắn Vi hành ( Nguyễn Ái Quốc ).

Phân tích đề:

- Đề yêu cầu phân tích một khía cạnh ở Vi hành : nghệ thuật độc đáo ở tác phẩm.

- Khi phân tích cần và nắm vững dặc trưng nghệ lthuật thể loại truyện ngắn .Khác với loại trữ tình, ở tác phẩm tự sự, cụ thể là truyện ngắnn, nghệ thuật xây dựng tác phẩm chủ yếu là sự dẫn dắt cốt truyện, phân tích tâm lý, tính cách nhân vật ...Xuất phát từ hoàn cảnh và mục đích sáng tác, truyện ngắn Vi hành được Nguyễn Ái Quốc xây dựng bởi thật từ tạo dựng tình huống ( nhầm lẫn ), kể chuyện bằng viết thư đến hàng loạt các thủ pháp trào phúng...

Gợi ý làm bài:

I. Mở bài:

- Giữa năm 1922,thực dân Pháp đưa vị bù nhìn ở nước An Nam là Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa tại Mácxây.Sự thật, đây lại là âm mưu của chúng, nhằm lừa gạt nhân dân Pháp, vì khi sang Khải Định sẽ cảm tạ ở khai hoá của “mẫu quốc” đối với đất nước mình. Màn lừa bịp này bị nhiều người việt Nam khi ấy đang ở Pháp, hoặc trong nước lên tiếng phản đối, chẳng hạn Phan Chu Trinh viết Thất điếu thư gửi Khải Định, Ngô Đức Kề viết Hỏi Gia Long...

- Nguyễn Ái Quốc khi đó đang ở Pháp, đã sáng tác một loạt tác phẩm : Sở thích đặc biệt ( bài báo,1922 ), Lời than vãn của bà Trưng Trắc ( truyện ngắn, 1923 ), Con rồng tre ( kịch, 1923 )... Vi hành là một truyện ngắn đặc sắc, nằm trong chuỗi sáng tác đó, nhằm vạch trần bộ mặt bán nước, làm tay sai cho thực dân Pháp của Khải Định, đồng thời phê phán bản chất dối trá của chủ nghĩa thực dân.Tác phẩm này nhằm hướng đến độc giả Pháp nên tác giả viết bằng tiếng Pháp và với bút pháp hiện đại của văn chương Pháp.Mặt khác, nhằm tăng tính thuyết phục, người viết đã xây dựng tác phẩm theo lối khách quan, để tự thân hình tượng nghệ thuật giàu chất trào lộng nói lên điều mình cần nhắn gửi .vì thế, truyện ngắn Vi hành đạt đến một trình độ nghệ thuật hết sức độc đáo.

II. Thân bài:

Những giá trị về mặt nội dung ở truyện ngắn Vi Hành được bộc lộ bởi một hình thức nghệ lthuật đặc sắc .Sự chia tách ở đây chỉ nhằm mục đích dễ nắm bắt, bởi không có một hình thức nghệ thuật đơn thuần, hay nói cách khác, đặc sắc về nghệ thuật ấy chính là ở chỗ đã chuyển tải được các giá trị về nội dung mà tác giả muốn nhắn gửi.

2.1. Nghệ thuật trần thuật:

- Truyện được xây dựng dưới hình thức bức thư.Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, xưng “tôi”, nhưng người đọc phải hiểu đó không phải là “tác giả” .Ngay cả lời đề từ cũng là một lối hư cấu ( Trích Những bức thư gửi cô em họ do tác giả tự dịch từ tiếng An Nam ). Đây là lối dựng truyện hết sức độc đáo :trong chuyện có chuyện, nhiều tầng nấc khác nhau.

- Lối kể chuyện này dẫn đến nhiều hiệu quả nghệ thuật .Trước hết, người kể gieo vào lòng độc giả một niềm tin : Đây là câu chuyện có thật, của một người nào đấy chứ không phải do người viết bịa ra.

+Này, Khải ĐỊnh là một tên vua nhố nhăng, kệch cỡm :Em thì em đã thấy hắn ở trường đua, trông hắn có vẻ nhút nhát hơn, lúng túng hơn cơ,có cả cái chụp đèn, chụp lên cái đầu quấn khăn, các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn ...Hắn còn làm mình bật cười hơn nữa cơ lúc hắn đeo lên mình hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm.

+Nay, Khải Định, “vị vua An Nam”, đang trở thành một gã hề mới, không phải mất tiền, cho người dân Paris : Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở nhà hát Ca vũ đấy chứ ? Phải trả những nghìn rưởi phrăng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Cônggô ; hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu, mà được xem vua đang ngay cạnh ? Nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có định kí giao kèo thuê đấy ...

Những bạn đọc hãy lưu ý, đây không phải là chuyện do người kể ( tức người viết thư ) bịa đặt, cũng chẳng phải là người An Nam có thể không thích vị vua của mình mà xuyên tạc. Chuyện của người Pháp chính quốc hẳn hoi, mà không phải một người nhìn thấy “ông vua hề” đâu, ít nhất đến hai người đã trông thấy y !

- Mặt khác, với hình thức bức thư, người kể chuyện dường như không bị bó buộc phải theo một trật tự nào.Trái lại, rất phóng túng, tự do:

+Có lúc chỉ kể, bằng chính giọng điệu của người trong cuộc : Hắn đấy ! / Đâu phải / Đúng mà / Anh đã bảo chính là hắn đấy.

+Có lúc vừa kể, vừa soi xét :Họ ngấu nghiến trông tôi với cặp mắt ma mãnh, tò mò, nhưng lại ra bộ không nhìn thấy tôi gì cả.

+Đôi khi, kể để bộc lộ thái độ của mình : Cô không thể tưởng tượng được cảnh đón tiếp tốt đẹp người ta dành cho chúng tôi ở đây.Quần chúng cứ là tự phát mà biểu lộ nhiệt tình khi vừa thoáng thấy một đồng bào ta .Những tiếng “hắn đấy” ! hay “xem hắn kià!” làn những lời chào mừng kín đáo và kính trọng mà chúng ta thường gặp dọc đường.

+Và, dưới hình thức bức thư, có khi chỉ là tâm trạng, kể để giải bầy: Ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi cửa, thật tôi không sao che giấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh được có một vị hàng đế.

Việc Khải Định sang Pháp chẳng khác gì một vở bi kịch hài .Với hình thức một lá thư gửi cô em họ ở quê nhà, Nguyễn Ái Quốc đã cho người xem trọn vẹn vở bi hài kịch đó.

2.2. Tình huống truyện :

Ý chính cần phân tích là ở truyện ngắn Vi hành mtác giả đã dựng nên một tình huống độc đáo, vừa tạo ra sự hấp dẫn của truyện, vừa gây được hiệu quả châm biếm sây cay . Đó là sự liên tục nhầm lẫn và toàn bộ câu chuyện được kéo đi bởi sự nhầm lẫn đó.

- Sự nhầm lẫn ( thứ nhất ) của đôi trai gái người Pháp trên toa tàu điện ngầm, khi họ trông thấy một người An Nam ( chính là người kể chuyện ) và họ quả quyết đấy là vua Khải Định .Do nhầm lẫn mà họ tha hồ nhìn ngắm đối tượng được kể với cặp mắt ma mãnh, tò mò .Thủ pháp này giúp tác giả dựng nên trọn vẹn chân dung Khải Định từ nhiều góc cạnh, ở nhiều nơi, nhiều lúc khác nhau dù không một lần xuất hiện .Tình huống này khiến cho câu chuyện thêm phần khách quan .Từ nhầm lẫn của một đôi nam nữ thanh niên Pháp, câu chuyện hé mở :tất cả người dân chính quốc đều nhầm lẫn như vậy.

- Nhầm lẫn lớn thứ hai là sự nhầm lẫn của chính phủ Pháp .Nhà cầm quyền nhầm lẫn giữa “nhà vua” của một nước thuộc địa với người dân của nước ấy.Do đối tượng của công vụ đã bị “nhầm lẫn” nên việc thực hiện công vụ càng trở nên lố bịch . Thực chất của việc tạo dựng nên nhầm lẫn này là để tác giả bóc trần thủ đoạn dùng hệ thống mật thám để theo dõi tất cả những người Việt Nam yêu nước trên đất Pháp.

2.3. Nghệ thuật trào phúng:

Vi hành đồng thời là một tác phẩm trào phúng nhằm châm biếm, đả kích những đối tượng mà tác giả đã có chủ ý. Ở bất kỳ tác phẩm tráo phúng nào, hiệu quả nghệ thuât jchỉ có được thông qua tiếng cười . Ở Vi hành, tiếng cười đến từ tình huống truyện ( liên tục nhầm lẫn ),từ việc tạo dựng mâu thuẫn, sử dụng thành thạo các biện pháp phóng đại và ngôn ngữ trào phúng.

- Mâu thuẫn trào phúng :

Trong tác phẩm đay dẫy những mâu thuẫn được xây dựng từ cốt truyện, chi tiết đến bản thân hình tượng nhan vật.

+Hình tượng Khải Định : Là sự đối lập giữa một đấng hoàng thượng, đại diện cho một quốc gia, lẽ phải tôn nghiêm với tên hề lố lăng, trơ trẽn ;sự đối lập giữa mục đích vi hành vốn của những bậc cải trang vĩ đại muốn đi sâu vào cuộc sống nhân dân với chuyến vi hành đẻ tiện việc riêng và vì những lý do không cao thượng của cậu công tử bé đặng được ăn chơi bừa bãi ...

+Chính phủ Pháp : Là sự đối lập giữa miệng lưỡi hô hào thực hiện “khai hoá văn minh” với chính sách đầu độc rượu và thuốc phiện ở thuộc địa ;là sự mị dân về tự do, dân chủ với chế độ mật thám dày đặc,bám chặt lấy những người yêu nước Việt Nam như hình với bóng...

Tiếng cười đã bật ra từ các mâu thuẫn ấy và bản chất của sự thật được phơi bầy .

- Biện pháp phóng đại :

Biện pháp phóng đại được tác giả Vi hành sử dụng khá hiệu quả, từ sự phóng đại về sự kiện ( nhầm lẫn ) đến từng chi tiết .Chẳng hạn, Khải Định gửi tuỳ tùng ở kho hành lý nhà ga để đi chơi vi hành.Nước Pháp đang thiếu những trò lố giải trí thì Đúng lúc đó thì có một ông vua đến với chúng ta .Bộ dạng vua An Nam kỳ quái đến nỗi ông bầu nhà hát múa rối định ký giao kèo thuê đấy ! Sự ngu ngơ ( vì nhầm lẫn ) của bộ máy chính quyền nước Pháp khi xem tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế rối bèn đối đãi với tất cả mọi người An Nam vào hàng chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt ...

- Chơi chữ:

Tác giả sử dụng chơi chữ đắt giá : Inognito nguyên nghĩa tiếng Pháp là không để người ta biết, hoặc mang một cái tên không phải là thật.Khi dịch sang tiếng Việt, nhà thơ Phạm Huy Thông dùng vi hành, với nghĩa tương tự . Ở phương đông vua chúa vi hành để hiểu dân là chuyện không hiếm .Tác giả trong chuyện cũng đã kể lại chuyện vi hành của các đấng minh quân : vua Thuấn ( Trung Quốc ),vua Pie ( Nga ) .Khải Định sang Pháp cũng cair trang đi nơi này nơi khác, tức vi hành, nhưng đê tiện việc riêng và vì những lý do không cao thượng bằng .Hoặc gọi cuộc ăn chơi của Khải Định là học đòi “các cậu công tử bé”.Người Pháp ai cũng biết đến các “đại công tử”, tức những nhà quý tộc nhiwuf tiền của, ăn chơi đài các.Khải Định sang Pháp cũng tập tành ăn chơi, nhưng dốt nát, chơi chưa đúng điệu, chỉ xứng với hạng “công tử bé” mà thôi.

- Lối so sánh:

Tác giả sao sánh mật thám Pháp theo dõi, rình mò như bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất.Vì sợ mất đối tượng theo dõi nên họ bám chặt lấy đế giày tôi,dính chặt với tôi như hình với bóng ...

- Giọng điệu :

Trong truyện ngắn Vi hành, giọng điệu trần thuật được thay đổi liên tục .Khi trang nghiêm :Tôi đã thuật lại y nguyên câu chuyện ...;Tôi nhớ chuyện vua Thuấn ... Khi giả vờ trang nghiêm : Tôi không được rõ ý đồ nhà “vi hành” của chúng ta ra sao.Lúc châm chọc: Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền cai trị của bạn ngài là Alêchxăng đệ nhất, có được sung sướng, có quyền uống nhiều rượu bằng dân Nam, dưới quyền cai trị của ngài, hay không ? Lúc mỉa mai : Đến nay,tất cả những ai ở Đông Dương có màu da trắng đều là những bậc khai hoá...;Ngày nay, cứ mỗi lần ra cửa, thật tôi không sao che giấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh được có một vị hoàng đế.

Sự thay đổi giọng điệu nhanh chóng, có khi diễn ra ngay trong một lời kể, một đoạn văn .Nó dẫn dắt tâm lý mtìn cảm người đọc theo mỗi giọng điệu và cho phép tác giả liên tưởng từ chuyện nọ sang chuyện kia một cách tuỳ hứng theo ý đồ sáng tạo của mình.Ví như, từ chuyện vi hành của Khải Định, người kể liên tưởng đến các chuyến vi hành của những đấng minh quân, rồi lại mỉa mai mục đích vi hành của tên vua tay sai.Hoặc, từ chuyện ở nước Pháp, người kể nói đến chuyện tại các xứ thuộc địa ;chuyện nhầm lẫn ở Mác xây với mạng lưới mật thám Pháp ... Bởi vậy, với dung lượng chỉ là một chuyện ngắn, chỉ độ 3 trang giấy in, nhưng tác giả đã nói rất nhiều với sự linh động, hấp dẫn và đầy tính thuyết phục .

III. Kết luận:

Qua truyện ngắn Vi hành, chúng ta càng hiểu hơn qua điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, cảm nhận được tấm lòng yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập, tự do cho tổ quốc và tài năng nghệ thuật của tác giả.
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Phân tích tác phẩm hai đứa trẻ của Thạch Lam
HAI ĐỨA TRẺ
( Thạch Lam )

I.Cách tiếp cận
Hai đứa trẻ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam: hiện thực và thi vị trữ tình. Hai đứa trẻ là loại truyện không có cốt truyện nên sức hấp dẫn của nó chính là chất thơ của truyện. Phân tích tác phẩm này cần lưu ý các điểm trên.
II. Kiến thức cơ bản
1.Nhà văn Thạch Lam: là cây bút chủ chốt của Tự lực văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mỹ lại hướng về những kiếp người nghèo cơ cực trong xã hội với sự thông cảm và xót thương.
2.Hai đứa trẻ là truyện ngắn không có cốt truyện. Tác phẩm miêu tả khung cảnh một phố huyện nhỏ về đêm và tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ..
Khung cảnh phố huyện lúc về đêm tĩnh lặng, buồn man mác và đầy chất thơ. “ Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru và thoảng qua gió mát “. Trong không gian đó, xuất hiện ở con người ở phố huyện: những đứa trẻ con nhà nghèo, mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm...với kiếp sống quẩn quanh, bế tắc và buồn tẻ. “ Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ thường ngày của họ “. Chính từ cuộc sống này, Liên và An như khao khát chờ đợi một thứ ánh sáng khác với thứ ánh sáng leo lét, tối tăm của phố huyện.
-Hình ảnh chuyến tàu đêm được Thạch Lam dụng công miêu tả , đặc biệt là ánh sáng của những toa tàu.
+ Đêm nào, Liên và An cũng đợi tàu không phải để bán hàng mà để được nhìn “ hoạt động cuối cùng của đêm khuya “
+ Từ xa âm thanh đoàn tàu vang động cả một vùng “ tiếng xe dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi “. Lại gần, đoàn tàu như một thế giới khác, lố nhố “ trên những toa hạng sang trọng, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng “, “ các toa đèn sáng trưng chiếu sáng cả xuống đường ...”
+ Đối với chị em Liên, chuyến tàu là biểu hiện của sự sống náo nhiệt, đầy ánh sáng. Nó gợi lại kỷ niệm của ngày xưa sung sướng ở Hà Nội khi thầy Liên chưa mất việc. Đoàn tàu đã mang lại thế giới khác, thế giới của ánh sáng, của ước mơ. Con tàu đã đưa cả phố huyện ra khỏi cảnh sống tù đọng, u uẩn.
Hình ảnh đoàn tàu thể hiện mơ ước của người dân phố huyện, đặc biệt là hai chị em Liên và An, về một cuộc sống tốt đẹp. Điều đó thể hiện tấm lòng nhân đạo của nhà văn.
----------------------------------------------------------
Đề: Bên cạnh chất hiện thực, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn ậm đà chất lãng mạn.
Anh (chị) hãy dựa vào tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam để làm sáng tỏ vấn đề này.
Bài làm

“ Văn học là nhân học” ( M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con ngườI luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hoà quyện vớI nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.
“ Hai đứa trẻ” vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng ngườI đọc một nỗI buồn bâng khuângday dứt về đờI sống con người.
Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ xác và lạI càng xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trờI đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trờI phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ngòi đồng, thế cũng đủ làm thành cái buổI chiều êm như ru như bao chiều khác.
Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lạI hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổI chiều chỉ còn lèo tèo vài ba ngườI bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ đi thu lượm các thứ lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗI buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong “Hai đứa trẻ”.
Song bức trang phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tớI từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những ngườI mang trong mắt Liên dường như quá quen thuộc, mỗI ngườI đã có một thói quen. Như bác phở Siêu. chị Tí, bố con nhà hát sẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợI chờ. Hiện thực không làmta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo vớI những ngườI cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chấ văn lãng mạn.ThờI gian đi vào cuộc sống của phố huyện “ rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. ThờI gian cứ chậm rãi đi từng bước phát triển của nộI tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng : “Chiều, chiều rồI” cất lên trong lòng, rồI trờI nhá nhem tốI đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm”, của ban ngày chỉ còn “vòm trờI vớI ngàn ngôi sao xanh ganh nhau lấp lánh”. MỗI thờI điểm lạI có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hoá nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.
Có buổI chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ cón tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mớI có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình chính là ở chổ nhà văn vừa hoà nhập hai tâm hồn quan sát là một. HIểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mãi ngồI quên mất! Bây giờ Liên vộI vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lạI”.
“TrờI bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát”. Nhưng câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. PhảI chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn hay chính là từ tâm hồn của Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng ngườI về muộn từ từ trong đêm”.
Nếu như đầu tốI phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Một vài tia sáng le lói từ kẻ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của thứ đom đóm lập loè trong kẽ lá bàng lạI càng gợI buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “ chớp” nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có vài hiện thực vừa có sự bay bổng của ngườI bút phác lên và đằm lạI trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủsoi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật vớI hai “gam màu” sáng tối. Khuônmặt ngườI phụ nữ chân quê chất phát đã trảI qua một ngày bươn bảI vớI cuộc sống để kiếm cái ăn, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tốI tăm. Nhưng tốI nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để làm thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.
Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? PhảI chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là nơi để họ sống…Âm thanh của cuộc sống phát ra từ những lờI đốI thoạI, những hoạt động của con ngườI nơi đây. MỗI ngườI đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.
Chẳng có một nét chấm phá nào trong bức tranh nhưng tất cả những con ngườI có mặt đã làm nên tổng thể củacảnh vật cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ vớI nước mắt của đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo bằng” một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phát hoạ một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lý do để ngườI dân phảI lao vào cuộc bon chen giành dật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hoà thực sự, ấm áp tình ngườI và mỗI ngườI khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.
Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện nhân cách tyệt vờI của ông.
Trở lạI vớI cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lạI ở cảnh bao quát mà đắm lạI ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính lả điểm nhà văn đã tập trung khắc hoạ. Liên gây ấn tượng bởI nộI tâm sâu sắc, xuất phát từ một con ngườI đa cảm. Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợI lên từ cảnh phố huyện xơ xác buồn trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏI chạnh niềm thương: đó là những chú bé nheo nhóc nhớn nhác giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẫu que kem và những gì còn có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một ngườI chị còn bé hơn thế nữa, nỗI lòng buồn báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.
Bức tranh phồ huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tốI hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một thứ gì của cảnh ngoài kìa, Liên đã thốt lên rồi. Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đờI, cảnh sống của mỗI ngườI lần lượt đi qua tâm hồn tưởng như non nớt của Liên.
Cuộc sống của từng ngườI đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể ngườI dân quê nghèo khó. Từ những mảnh đờI cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống , ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lạI ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán vớI những khoảnh đất trống “Lá đa lác đác trước lều” và những “con ngườI ấy” mà thôi.
Nhưng ở Liên lạI có một sự khác lạ mà trong số trên chẳng có ai. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợI tàu”. Nếu mẹ Liên ở đó chắc không cho cô thức. Nhưng đó mớI chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc hoạ hình ảnh Liên cùng em đợI tàu vớI một niềm háo hức rất trẻ con.
Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏI, đợI chờ, như một thoáng niềm vui cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó càng làm lòng Liên có một mỗI buồn vô hình xâm lấn. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lạI chợt gợI thêm nỗI buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã lẩn khuất sau màn đêm dáy đặc, không gian của phố huyện thoáng giao động rồI lạI trở về như xưa. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết nên vui hay nên buồn. Vui có lẽ đúng hơn vì hàng ngày chuýên tàu vẫn là niềm mong mỏI của chị. Có ngườI nói “chờ đợI là một điều khủng khiếp”; song, không có gì để chờ đợI lạI càngkhủng khiếp hơn. VớI Liên điều khủng khiếp chính là niềm vui mà chị có thể tự tạo cho mình. Chất lãng mạn ngay trong cảnh đợI tàu. Cảnh đợI tàu ở đây tuy có khác vớI cảnh đợI tàu trên sân ga nhưng lạI vẫn chung một nỗI niềm mong mỏi. Điều đáng nói hơn là duy chỉ một cô bé Liên đợi. Cuộc sống bon chen đã không làm chị chìm trong cảnh đờI lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao niềm vui của cuộc sống. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được nhiềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đờI. quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có cấu tứ khá hoàn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Cho đến nay, chị vẫn sống vớI một niềm vui của chuyến tàu đem lại. “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện. tạo nên bằng một cuộc đời. tạo nên như là ngườI dẫn chuyện.
Thành công của thạch Lam chính là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp lãng mạn vớI xu hướng hiện thực, nhân đạo. Tạo cho mỗI tác phẩm của ông một sức sống trường tồn cùng lòng người. Tình ngườI của nhà văn vớI nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới. Ai đó đã định nghĩa về thơ : “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đờI còn là thơ nữa” thì truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác nữa của thạch lam có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lạI “cuộc đờI” thật nhiều sâu sắc.
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nv Mị trong “Vợ chồng A Phủ”

MB:

Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính đến nay đã già nửa thế kỉ. Hơn 60 năm cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại phong phú, đa dạng. Thế nhưng nhắc đến Tô Hoài ta ko thể quên đc tp “Dế mèn phiêu lưu kí”- tp tiêu biểu trước Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng, Tô Hoài lại nổi lên với tập truyện Tây Bắc mà linh hồn của nó là Vợ chồng A Phủ. Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhớ đến Tô Hoài với tp “Cát bụi chân ai”… Cho đến nay, “Vợ chồng A Phủ” vẫn là cái mốc thách thức với chính Tô Hoài, truyện đc giải thưởng văn nghệ năm 1954-1955, một tp xuất sắc viết về đề tài miền núi. Truyện xoay quanh cuộc đời của Mị- 1 cô gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp, nết na được Tô Hoài xây dựng chân thực và sống động với sức sống tiềm tàng bất diệt. Thông qua sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngòi bút của Tô Hoài đã bộc lộ là 1 ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Sêkhốp đã từng nói: “ 1 người nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”. Tô Hoài là 1 nhà văn như vậy.

TB:

a. Trước hết là phản ứng của Mị khi biết tin mình là con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra

Như đã nói, Mị là 1 cô gái mèo xinh đẹp, nết na. Một người như Mị lẽ ra phải được sống cuộc đời hp, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Ngày xưa khi cưới nhau đã ko có tiền, bố mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra- tức ông của A Sử 10 đồng bạc trắng, mỗi năm fải trả lãi 1 nương ngô. Cho đến nay bố Mị đã già, mẹ Mị đã chết vậy mà món nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra đến gạ bố Mị gả Mị cho A Sử con trai hắn làm con dâu gạt nợ. Biết vậy, Mị đã phản ứng lại ngay: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải ở nhà làm nương ngô trả nợ cho người ta. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đây chỉ là 1 câu nói bình thường nhưng đã toát ra cả 1 con người. Đó là con người có sức sống tiềm tàng bất diệt. Câu nói của Mị là 1 sự đánh tráo, đánh đổi: Mị thà ở nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy để được sống 1 cuộc đời hp trong tự do còn hơn fải làm con dâu cửa nhà giàu, sống kiếp đời trâu ngựa, nô lệ. Sự đánh tráo, đánh đổi ấy chỉ có thể có được ở những con người mạnh mẽ, tự tin, biết quí trọng danh dự, nhân fẩm của chính bản thân mình. Có câu: “Thân gái như hạt mưa sa”, việc người con gai được sa vào cửa nhà giàu, đó là ước mơ, thậm chí còn là sự toan tính của nhiều người phụ nữ. Thế nhưng với Mị, 1 con người có sức sống tiềm tàng bất diệt thì Mị ko chấp nhận điều ấy bởi Mị hiểu rõ gia đình nhà Thống lí Pá Tra. Đó là nơi hang hùm nọc rắn, Mị hiểu rõ bản chất của cuộc hôn nhân gả bán này: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Rõ ràng chỉ là 1 câu nói giản đơn nhưng fần nào đã gợi mở cho người đọc thấy được ở Mị có sức sống tiềm tàng bất diệt.

b. Mị toan tự tử:

Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị ko chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi thế nên những người hiền lành nết na như Mị ko thoát đc. Mị bị bắt cóc, bị lường gạt về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó. Biết được điều này “có đến mất tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Mị ko chấp nhận cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã đến với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định quyên sinh. Nhưng khi về đến gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ bi kịch gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn nước mắt: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi ko lấy ai làm nương ngô giả đc nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko đc, con ơi!”

Sau khi Mị nghe những lời nói như van xin của cha, cô đứng trước 1 hoàn cảnh éo le, oái oăm, cay cực. Mị sống ko muốn, Mị chết ko xong. Tuy nhiên việc Mị đã đến ý định tự tử lại thể hiện sức sống tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch lý?

Mới nghe qua tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong hoàn cảnh của Mị đó lại là 1 điều hợp lí sâu sắc bởi vì Mị muốn chết như 1 con người còn hơn fải sống như 1 con vật. Mị muốn chết ngay 1 lần để đc làm người còn hơn fải sống cs chết dần, chết mòn, chết khô, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng nếu làm theo sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng thì Mị fải trà đạp lên chữ “hiếu”, Mị ko thể giày xéo lên tình phụ tử. Vì chữ “hiếu” Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước mắt quay trở lại nhà thống lí. Nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên la địa võng, dấn thân vào đó là dấn thân vào chỗ chết, vào địa ngục trần gian. Biết đc điều này nhưng Mị vẫn chấp nhận vì thương cha. Đọc đến đây ta nhớ đến bi kịch của Thuý Kiều hơn 200 năm trước “bán mình chuộc cha”. Hôm nay bi kịch ấy lại đổ dồn lên đôi vai gầy của người con gái Mèo nghèo khổ. Giữa những năm đó, miền Bắc nước ta đang tiến lên CNXH nhưng ánh sáng của Đảng chưa rọi tới cs của những người vùng cao. Là 1 chiến sĩ trên diễn đàn văn chương, nói như HCM: “VH nghệ thuật là 1 mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Tô Hoài thông qua “vợ chồng A Phủ” đem ánh sáng của Đảng rọi lên kiếp đời thổ ti lang tảo ở bản Mèo để “cứu đất cứu Mường”. Bđầu từ đây Mị sống khác hẳn, Mị ko khóc như trước nữa. “Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, như cái bóng, cái xác vô hồn trong địa ngục trần gian. Mị sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết đc, điều này đã được Tô Hoài thể hiện ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với những câu văn đầy tính tạo hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt chúng ta với sức sống tàn fai, mai một: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra…cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

c.Tất cả những gì tưởng đã chết trong lòng Mị thì bây giờ lại được hồi sinh, hồi sinh 1 cách chóng vánh khi mùa xuân đến.

Phải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt bút của nhà văn Tô Hoài. Ta bắt gặp ở 1 nhà văn hiện thực lại có những trang văn lãn mạn. “Vợ chồng A Phủ” xứng đáng là 1 minh chứng cho lời nhận định: “Văn học VN gđoạn 45-75 có sự kết hợp hài hoà giữa 2 nhân tố hiện thực và lãn mạn”. Nhưng điều cta quan tâm hơn cả là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi mô tả sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Ông tỏ ra am hiểu những tâm lí phức tạp, âm thầm trong tâm hồn người fụ nữ:

Đầu tiên là sự thay đổi bên ngoài. Năm ấy mùa xuân về sớm hơn mọi năm. Tô Hoài mô tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp các bản làng. Những nương thuốc fiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra fơi trên những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo mới đến đánh quay, ném pao, tung còn,… Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị- 1 tâm hồn khô cằn, nó làm cho sức sống của Mị bđầu có sự vận động, nó chẳng khác nào những nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang fải chịu quá nhiều đau khổ.

Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Trong không gian tiếng hát, tiếng sáo, tiếng khèn lá, khèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo rắt nhau đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Nó đánh thức dậy những bài hát lâu nay tiềm ẩn sâu trong tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:

“Anh ném pao

Em ko bắt

Em ko yêu

Quả pao rơi rồi”

Hay: “Mày có con trai, con gái rồi

Mày đi làm nương

Tao chưa có con trai, con gái

Tao đi tìm người yêu”

Nhưng điều đáng nói hơn cả là chính tiếng sáo ấy đã đánh thức dậy 2 tiếng “ngày xưa” từ trong lòng Mị. Kể từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị sống cđời phi ko gian, phi thời gian. Thế giới của Mị là 1 căn buồng tăm tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ mờ, trăng trắng, ko biết ngày hay đêm, sương hay nắng. Khi 1 người ko nhận thức đc ngày, đêm, sương, nắng nghĩa là ko nhận thức đc ko gian và thời gian, cũng đồng nghĩa với sức sống của họ đang tàn fai, mai một. Hnay thì khác, thời gian đã trở về với Mị, thời gian ấy cho Mị thấy hiện tại quá khổ đau, quá khứ ngày xưa mới là hp. Thế là Mị luôn hướng về ngày xưa, hướng về quá khứ, muốn kéo dài quá khứ, muốn vớt vát quá khứ để bù đắp những cay đắng trong hiện tại.

Mùa xuân năm ấy, khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn Tô Hoài rất khéo léo khi đưa bất cứ 1 hình ảnh nào đến với Mị thì hình ảnh ấy đều là chỗ dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là bữa cơm tất niên trong gđ nhà thồng lí Pá Tra với hình ảnh của những người ốp đồng nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc sinh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng, náo nức. Niềm rộn ràng, náo nức ấy thực sự là nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi chơi. Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị đã trỗi dậy, nó trở thành đòi hỏi bên trong muốn cất cánh ra bên ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống ừng ực từng bát, Mị uống như nuốt những tủi hờn, cay đắng vào trong ***g ngực. Mị uống như nuốt hiện tại khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá khứ hp. Thế là Mị đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ tự do, với hp trong mối tình đầu. Việc làm tiếp theo của Mị khi cô bước vào căn buồng tăm tối ấy là Mị xắn 1 miếng mỡ để vào trong đèn cho đèn sáng hơn. Đây ko còn là chi tiết sinh hoạt nữa mà nó trở thành 1 chi tiết có chiều sâu nghệ thuật bởi trước đây ko thiết sống nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp, bẩn thỉu… Mị cũng chẳng bận lòng. Hnay thì khác, lòng yêu đời vừa mới trở về với Mị. Mị muốn đời mình fải sáng sủa hơn. Thế nên hành động Mị xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho đèn sáng hơn cũng đồng nghĩa với việc Mị thắp lên ngọn lửa trong lòng mình. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị chuẩn bị, sửa soạn đi chơi. Mị tìm cái váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách. Khi 1 người đàn bà khổ đau sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, như cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian bỗng 1 hôm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, muốn ăn mặc đẹp, đó là dấu hiệu đầu tiên của sự tái xuân. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức sống ấy đã bị dập tắt ngay lập tức, A Sử đã vùi dập nó 1 cách fũ fàng, hắn trói Mị = 1 thúng dây đay từ chân lên đầu. Chưa bao giờ Mị lại cảm thấy nhục nhã như thế, sự so sánh đã bắt đầu xuất hiện trong Mị, Mị thấy mình ko bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, khi mỏi còn đc đổi tàu, còn đc gãi chân, nhai cỏ, còn Mị khóc ko tự lau đc nước mắt. Cơ chừng sau lúc ấy sức sống tiềm tàng của Mị tắt hẳn.

d. Sức sống tiềm tàng thêm 1 lần nữa trỗi dậy khi gặp A Phủ

Cuộc đời của Mị sẽ cứ như thế cho đến chết nếu như Tô Hoài ko để cho Mị gặp đc 1 người. Người ấy đã tiếp cho Mị 1 sức mạnh vô cùng để 1 lần nữa sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy để giải thoát đời mình, giải thoát người cùng cảnh ngộ, đó là A Phủ. A Phủ bị trói, bị bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương muối ở vùng cao. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa để hơ tay. Mị vẫn nhìn thấy A Phủ nhưng có lẽ sống lâu trong địa ngục trần gian, trong gia đình nhà thống lí mà việc đánh trói con người còn nhiều hơn cơm bữa nên lòng thương người của cô Mị nết na đã bị chai sạn, chai lì. Vẫn nhìn thấy A Phủ. Mị ko động lòng thương nhưng hnay thì khác. Chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị bất chợt nhìn sang và giật mình nhận thấy 1 chàng trai to khoẻ nhất bản giờ đây đã bị đánh đến tiều tuỵ, mặt sám lại, má hõm sâu, 2 con mắt trũng sâu đầy bóng tối. Và đúng lúc đó, 2 hàng nước mắt từ hai hố mắt lặng lẽ bò xuống hõm má. Mị cảm thấy ko thể đành lòng, niềm thương cảm chợt dâng lên trong lòng Mị, Mị nhớ đến mình ngày trước cũng bị trói, bị đánh như thế. Thương mình Mị lại thương người, Mị ném ra câu nói như thế này trong bóng tối: “Ta là thân đàn bà nó đã trình ma nhà nó chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đây, người kia việc gì fải chết…A Phủ”. Khi 1 người đàn bà khổ đau, sống lầm lũi trong bóng tối bỗng 1 hôm ném ra câu hỏi như thế, đó là khởi đầu của sự nổi loạn. Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy thành sức mạnh, sức mạnh ấy đã biến 1 người đàn bà yếu đuối thành 1 người can đảm, biến 1 người nhẫn nhục trở thành 1 người fản kháng. Chưa bao giờ người đọc lại thấy Mị liều lĩnh như thế. Nghĩ đến cái chết Mị cũng ko sợ nữa, ý định cứu A Phủ đã đến với Mị trong khoảnh khắc Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Cho đến vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại quật người đứng dậy chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị vẫn chỉ nghĩ đến việc cứu A Phủ. Đến khi A Phủ chạy xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy nguy cơ mình có thể bị chết thay vào đó, ý định tự cứu mình đã đến với Mị, Mị nói: “A Phủ! Cho tôi đi!”. Đây là 1 câu nói của lòng ham sống trong giờ fút nguy cấp để giải thoát đời mình. Thế là 2 người nô lệ giải thoát cho nhau, nương tựa vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa.

KB:

Việc Mị giải thoát cho A Phủ có thể coi như 1 chiếc bản lề khép mở 2 thế giới. Nó khép lại TG tăm tối với kiếp sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài, đồng thời nó mở ra TG mới- TG tươi sáng ở phía Phiềng Sa. Với hành động này của Mị, nó đã đưa “vợ chồng A Phủ” trở thành tp bản lề trên diễn đàn văn chương VN. Nó khép lại những hạn chế của 1 dòng văn học hiện thực fê fán 1 thời. Nó mở ra 1 hướng đi mới cho VH kháng chiến và đây nó trở thành mốc thách thức của chính nhà văn Tô Hoài. Đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã gặp được ánh sáng của Đảng, gặp được cán bộ CM A Châu. Và 2 người đã tham gia CM, chỉ có CM mới soi sáng được kiếp người trâu ngựa, nô lệ. Và cũng chỉ có Mị và A Phủ mới là những người cách mạng trung kiên. Nói như nhà thơ Tố Hữu:

“Đời CM từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là fải chịu khổ nhiều

Là gươm kề cổ, là súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn 1 nửa”

“Vợ chồng A Phủ” mô tả quá trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nô lệ này. Ngòi bút của Tô Hoài đã thể hiện là ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Và “vợ chồng A Phủ” mãi là bài ca ca ngợi tự do, lòng yêu đời.
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #8  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

Gợi ý làm bài:

Tràng là nhân vật chính trong Vợ nhặt. Câu chuyện ở đây là câu chuyện của chính anh. Đề yêu cầu phân tích nhân vật, có nghĩa là phân tích toàn diện một con người tron văn học, từ lai lịch, diện mạo cho đến ngôn ngữ, hành động, tâm trạng... Tuy nhiện, anh Tràng là một người lao động rất bình thường, thân phận thấp kém nên khác với bà cụ Tứ, anh ít có những suy nghĩ bên trong. Khi phân tích, tập trung vào mấy điểm:

1.Lai lịch, ngoại hình:

- Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân cư ngụ không có ruộng đất, những thứ vô cùng quan trọng đối với người nôn dân thời xưa. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là “nhà” thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

- Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn... Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệnh.

2.Tính cách:

- Tràng là người vô tư, nông cạn.

+Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.

+Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là lần gò lưng kéo cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhậ đưa về nhà để thành… vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng!

- Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.

+Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình.

+Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu thắp để vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí.

+Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà Tràng coi thường người vợ của mình. Anh muốn làm cho người ấy được vui (khoe mua dầu về thắp sáng), có lúc muốn thân mật nhưng không dám suồng sã. Tràng trân trọng, nâng niu hạnh phúc mà mình có được: Trong lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghò khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve nhẹ trên sống lưng.

- Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.

+Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là bước sang một quãng đời khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa trong mơ đi ra.

+Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ cua anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng những bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ bay phất phới.

3.Số phận:

- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ (con trai lão Hạc trong tác phẩm cùng tên Nam Cao cũng vì nghèo không lấy vợ, phẫn chí mà bỏ đi làm mộ phu), trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.

- Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.

4.Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn

- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động, khi hãnh diện cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, chie còn tình nghĩa. Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng ngiụ, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.

- Qua nhận vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn cua họ. Kim Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao động bình thường của những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao...
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #9  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Phân tích nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù) của Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân, một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam; có những sang tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phầm Chữ người tử tù.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng của Cao Bá Quát vớI văn chương “vô tiền Hán”, còn nhân cách thì “một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” làm nguồn cảm hứng sang tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sang ngời và rất đỗI tài hoa.
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu đến tấm long trong sang của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp.
Huấn Cao với tư cách là người nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết chữ. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách của con người. Chữ của Huấn Cao “vuông lắm” cho thấy ông có khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một báu vật trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn là chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.
Huấn Cao trong cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng cho bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác : con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khoá, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiếm có trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lí của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang,kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỵch một cái” và “lãnh đạm” khong thèm chấp sự đe doạ của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu goong, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dùng cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục !
Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời:
“Người hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây nữa thôi”
Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là...” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội.
“Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý.
Thế nhưng khi biết được nỗi lòng viên quản ngục, Húan Cao không nhữg vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt ra rằng :
“Ta cảm tấm lòng biệt nhãn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay quyền uy mà ép cho chữ bao giờ”.
Hành động cho chữ viên quản ngụ chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang tàng với mình.
Quay cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xích” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, tác giả Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa của con người.
Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người ca khuyên bảo con:
“Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành lắm rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện”.
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi.
Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi’ Huấn Cao , người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xoá tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.

Ý kiến bạn đọc
balaodethuong gửi lúc: 2310 Ngày 30-12-2008
sao ai cũng thi vô cái này nhỉ? Mai thi rùi này!
kimdamtrim gửi lúc: 1455 Ngày 27-12-2008
tuyệt phát huy nhe bạn
codon12152000 gửi lúc: 2302 Ngày 22-12-2008
uhm! bài này cũng được. nhưng mình nghĩ bạn còn chưa tập trung vào chi tiết cực kỳ wan trọng. Đó là "cảnh cho chữ". B nên fan tích kỹ hơn. Theo mình thì nên bổ sung ít ý nữa: "......"xưa nay chưa từng có". Nguyễn Tuân nhận xét như vậy cũng có cái lý của ông. Đó là vì giữa cái tối tăm, bẩn thỉu của chốn ngục tù,nơi cái tàn ác ngự trị, cái đẹp lại được tạo ra, mang lại cho đời một "vật báu" hiếm có. Đặc biệt hơn, người tạo ra cái đẹp trong tâm hônlại là "kẻ tử tù" sắp bước sang thế giới bên kia và người thưởng thức cái đẹp lại là người đại diện cho cái tàn ác của chốn ngục tù-"viên quản ngục". Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xích” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại. con người ấy trở thành một anh hùng nghệ thuật uy nghi, lẫm liệt, hiên ngang. Còn viên quản ngục, người có địa vị cao nhất nơi ngục tù lại "khúm núm" dõi theo từng nét chữ của Huấn Cao. Thầy Thơ Lại thì "run run bưng chậu mực". Trật tự thường ngày đã bị chính tấm lòng yêu nghệ thuật đảo lộn lên để sắp xếp lại theo một hình thái mới: hình thái mà nghệ thuật và cái đẹp trong tâm hồn luôn đưg đầu, trở thành một vầng sáng chói lòa, soi rọi cho thiên lương mỗi con người, làm cho nó trở nên thanh cao, đẹp đẽ và trong sáng hơn..." ý kiến của mìh là thế! tuy vẫn còn thiếu sót nhưng mog b bỏ wa cho.
codon12152000 gửi lúc: 23:11:06 Ngày 22-12-2008
uhm! bài này cũng được. nhưng mình nghĩ bạn còn chưa tập trung vào chi tiết cực kỳ wan trọng. Đó là "cảnh cho chữ". B nên fan tích kỹ hơn. Theo mình thì nên bổ sung ít ý nữa: "......"xưa nay chưa từng có". Nguyễn Tuân nhận xét như vậy cũng có cái lý của ông. Đó là vì giữa cái tối tăm, bẩn thỉu của chốn ngục tù,nơi cái tàn ác ngự trị, cái đẹp lại được tạo ra, mang lại cho đời một "vật báu" hiếm có. Đặc biệt hơn, người tạo ra cái đẹp trong tâm hônlại là "kẻ tử tù" sắp bước sang thế giới bên kia và người thưởng thức cái đẹp lại là người đại diện cho cái tàn ác của chốn ngục tù-"viên quản ngục". Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xích” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại. con người ấy trở thành một anh hùng nghệ thuật uy nghi, lẫm liệt, hiên ngang. Còn viên quản ngục, người có địa vị cao nhất nơi ngục tù lại "khúm núm" dõi theo từng nét chữ của Huấn Cao. Thầy Thơ Lại thì "run run bưng chậu mực". Trật tự thường ngày đã bị chính tấm lòng yêu nghệ thuật đảo lộn lên để sắp xếp lại theo một hình thái mới: hình thái mà nghệ thuật và cái đẹp trong tâm hồn luôn đưg đầu, trở thành một vầng sáng chói lòa, soi rọi cho thiên lương mỗi con người, làm cho nó trở nên thanh cao, đẹp đẽ và trong sáng hơn..." ý kiến của mìh là thế! tuy vẫn còn thiếu sót nhưng mog b bỏ wa cho.
( nguyên văn là của :http://www.onthi.com/bai-tap/19137.html)
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #10  
Old 08-04-2009
ch4ngkho14
ch4ngkho14 ch4ngkho14 vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
Thành viên
Member
 
Tham gia ngày: Sep 2007
Nơi cư ngụ: B1
Bài gửi: 53
Cám ơn: 0
Được cám ơn 0 lần trong 0 bài viết
Send a message via Yahoo to ch4ngkho14
òh, rất hoành tráng dếy kậu ạh . Vỗ tay cho pợn SPC nhà ta có công tìm kím her her
__________________
Ưu điểm: xấu xí - ngốc nghếch - đần độn - khó ưa.
Nhược điểm: bị cái tật toàn nói xạo
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #11  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Phân tích bài thơ Việt Bắc- Tố Hữu

Xuất xứ

Sau chiến thắng Điện Biên, hiệp định Geneve được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Hồ Chủ tịch và Chính phủ kháng chiến trở về thủ đô Hà Nội tháng 10/1954. Nhân dịp này Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc”.

Một vài điều cần biết qua

1. Việt Bắc là vùng địa lý - chiến khu bao gồm 6 tỉnh, được gọi tắt là: Cao-Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà. Trong 9 năm kháng chiến, Việt Bắc là chiến khu, là thủ đô của Chính phủ kháng chiến và Hồ Chủ tịch.

2. Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát gồm 150 dòng thơ (câu thơ). Cấu trúc theo hình thức đối đáp của lối hát giao duyên trong dân ca giữa “mình” với “ta”. (Sách Văn 12 chỉ trích học 88 dòng thơ)

Những ý lớn của bài thơ

- Những kỷ niệm ân tình sâu nặng một thời gian khổ

- Nhớ con người Việt Bắc

- Nhớ cảnh Việt Bắc trong 4 mùa

- Nhớ chiến khu Việt Bắc oai hùng

- Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Những tình cảm đẹp, những vần thơ hay

1. Hai mươi câu đầu là lời nhắn gửi, những câu hỏi của “ta” (người ở lại nhắn gửi hỏi “mình” (người về). Cảnh tiễn đưa, cảnh phân ly ngập ngừng, lưu luyến bâng khuâng: “Tiếng ai tha thiết bên cồn… áo chàm đưa buổi phân li…” Có 8 câu hỏi liên tiếp (đặt ở câu 6): “Có nhớ ta… có nhớ không… có nhớ những ngày… có nhớ những nhà… có nhớ núi non… mình có nhớ mình…” Sự láy đi láy lại diễn tả nỗi niềm day dứt khôn nguôi của người ở lại. Bao kỷ niệm sâu nặng một thời gian khổ như vương vấn hồn người:

(…) Mình đi có nhớ, những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…
Các câu 8 hầu như ngắt thành 2 vế tiểu đối 4/4, ngôn ngữ thơ cân xứng, hài hòa, âm điệu thơ êm ái, nhịp nhàng, nhạc điệu ngân nga thấm sâu vào tâm hồn người, gợi ra một trường thương nhớ, lưu luyến mênh mông.

“Mình” và “ta” trong ca dao, dân ca là lứa đôi giao duyên tình tự. “Mình”, “ta” đi vào thơ Tố Hữu đã tạo nên âm điệu trữ tình đậm đà màu sắc dân ca, nhưng đã mang một ý nghĩa mới trong quan hệ: người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc; tình quân dân, tình kẻ ở người về.

2. Sáu mươi tám câu tiếp theo là người về trả lời kẻ ở lại. Có thể nói đó là khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến, của người về. Bao trùm nỗi nhớ ấy là “như nhớ người yêu” trong mọi thời gian và tràn ngập cả không gian:

- Nhớ cảnh Việt Bắc, cảnh nào cũng đầy ắp kỷ niệm:

“Nhớ từng bản khói cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre,
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

- Nhớ con người Việt Bắc giàu tình nghĩa cần cù gian khổ:

“… Nhớ bà mẹ nắng cháy lưng
… Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang
…Nhớ cô em gái hái măng một mình
… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Điều đáng nhớ nhất là nhớ người ở lại rất giàu tình nghĩa, “đậm đà lòng son”:

“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

Nhớ cảnh 4 mùa chiến khu. Nỗi nhớ gắn liền với tình yêu thiên nhiên, tình yêu sông núi, đầy lạc quan và tự hào. Nhớ cảnh nhớ người, “ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ mùa đông “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Nhớ “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Nhớ mùa hè “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Nhớ cảnh “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nỗi nhớ triền miên, kéo dài theo năm tháng.

- Nhớ chiến khu oai hùng:

“Núi giăng thành luỹ sắt dày,
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”

- Nhớ con đường chiến dịch:

“Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay…”

Âm điệu thơ hùng tráng thể hiện sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta. Từ núi rừng chiến khu đến bộ đội, dân công, tất cả đều mang theo một sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam thần kỳ quyết thắng.

- Nỗi nhớ gắn liền với niềm tin

“… (Nhớ) ngọn cờ đỏ thắm gió ***g cửa hang
… Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
… Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”

- Nhớ Việt Bắc là nhớ về cội nguồn, nhớ một chặng đường lịch sử và cách mạng:

“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #12  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Phân tích tác Phẩm Rừng Xà Nu ( Nguyễn Trung Thành)

Nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) có duyên với Tây Nguyên. Cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, Nguyên Ngọc đã sống và chiến đấu ở mảnh đất hùng vĩ này. Hai tác phẩm hay nhất của Nguyên Ngọc đều viết về Tây Nguyên là “Đất nước đứng lên” và “Rừng xà nu”.

Truyện “Rừng xà nu” viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ mà cụ thể là hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên.

Nhà văn đã chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.

Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu. Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Hình tượng cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng, nó nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh “đồi xà nu” (4 lần), “rừng xà nu” (5 lần), với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.

“Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc… Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa úa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”. Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện đã cho thấy cuộc đấu tranh quyết liệt của dân làng. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống.

Nhưng hình tượng cây xà nu cũng tượng trưng cho sức sống dẻo dai,mãnh liệt của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên. “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế.”

“Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê”. Rừng xà nu mang ý nghĩa biểu tượng cho con người. “Đặt trong hệ thống chủ đề, trong mạch truyện, những cây xà nu này mang tính biểu tượng cho những Mai, Dít, Tnú, Heng, thế hệ trẻ của làng Xô Man bất khuất, gắn bó với cách mạng”. Chỉ đơn giản một chi tiết này, thấy cây xà nu giống người biết mấy! “Nhưng cũng có những cây vượt lên đựơc đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”. Hình ảnh đó giống Tnú biết bao, Tnú bị bọn giặc chém nhiều nhát sau lưng, trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại đó ứa một vệt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện, tím thẫm như “nhựa xà nu”. Nhưng sau khi ở tù vượt ngục trở về, những vết thương đã lành lặn, Tnú khoẻ mạnh, cường tráng, rồi trở thành một chiến sĩ kiên cường.

Cái chết của những cây xà nu giống cái chết của mẹ con Mai biết bao. “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng; vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”.

Và đây, Dít giống một cây xà nu non lao thẳng lên trời bất khuất. Dít nhỏ như lanh lẹ, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra từng cho cụ Mết và thanh niên. Chúng bắt đựơc con bé. Chúng để con bé đứng ở giữa sân, lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một. Không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó nó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng.

Hình ảnh những cây xà nu vững chắc, không chịu ngã trước giông bão, bom đạn của kẻ thù “ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho làng” gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh cụ Mết, con người tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man, người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng. Chính cụ Mết cũng đã nói với Tnú: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta…” Cụ còn nói với dân làng: “Nghe rõ chưa các con, rõ chưa Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại với con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Và khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nguyên nhân trực tiếp chính là do ngọn lửa xà nu cháy trên mười đầu ngón tay Tnú. Cả làng Xô Man bị kích động, những ngọn đuốc xà nu bùng cháy khắp rừng “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng…”

Viết về Tây Nguyên, Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) muốn gắn chặt đất nước với con người. Viết về anh hùng Đinh Núp, tác giả gọi tên tiểu thuyết của mình là “Đất nước đứng lên”. Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là “Rừng xà nu”… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện “Rừng xà nu” thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử
Nguồn từ http://hagiangvui.com
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #13  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Câu 1: Lúc đầu, Nam Cao đặt tên cho thiên truyện ngắn của mình là "Tiên sư thằng Tào Tháo", sau đổi là Đôi mắt. Căn cứ vào tác phẩm, hãy giải thích tại sao Nam Cao lại đổi tên tác phẩm như vậy? Ý nghĩa của tên truyện Đôi mắt


* Gợi ý trả lời:

Lúc đầu, Nam Cao đặt tên cho thiên truyện ngắn của mình là Tiên sư tằng Tào Tháo, sau lại đổi thành Đôi mắt. Tác phẩn được kết thúc bằng tiếng chửi yêu, đầy thán phục của nhân vật Hoàng khi nghe vợ đọc Tam Quốc ở cái đoạn Tào Tháo đánh Quan Công: "Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sư thằng Tào Tháo!". Lúc đầu có lẽ tác giả đặt tên cho truyện là "Tiên sư thằng Tào Tháo " là do ông nhận ra được cái độc đáo của câu kết xuất thần này. Nhưng sau đó, khi đã ngẫm nghĩ lại, như chính Nam Cao biết trong nhật kí, ông "đặt cho nó một cái tên giản dị và đúng đắn hơn, Đôi mắt". Như vậy cái tên Đôi mắt ra đời sau sự nghiền nẫm của nhà văn, vừa giản dị vừa sâu sắc, thể hiện được chủ đề của tác phẩm. Đôi mắt là vấn đề cách nhìn, vấn đề quan điểm. Nam Cao gọi đó là cách "nhìn đời và nhìn người". Cách nhìn ấy được thể hiện một cách cụ thể và sinh động, đầy ám ảnh nghệ thuật trong tác phẩm. Đó là cách nhìn nhân dân lao động, chủ yếu là người nông dân trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của một lớp trí thức văn nghệ sĩ.


Cau 2: "... Đôi mắt của Nam Cao được coi như là bản Tuyên ngôn Nghệ Thuật của thế hệ chúng tôi, hồi ấy ..." (Tô Hoài). Phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ nhận định trên.


* Gợi ý:

1. Đôi mắt thuộc số những tác phẩm mờ đầu xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945.

Đọc Đôi mắt, đầu tiên ta nhận ra một mảng hiện thực thời kì đầu của cuộc kháng chiến gian khổ. Vẫn chưa thấy Nam Cao, đột phá qua lớp vỏ hiện thực, ta nhận ra tầng ngầm tâm trạng của một thế hệ trí thứ văn nghệ sĩ hồi ấy. Vẫn chưa thực sự thấy Nam Cao. Phài đào đến lớp thứ ba, ta mới bặt gặp tầng tư tưởng, tức là tầng ý nghĩa nhân sinh mà nhà văn muốn gửi gắm trong tác phẩm. Ấy là vấn đề "đôi mắt", vấn đề nhận đường, vấn đề xác định cái nhìn đúng đối với nhân dân và kháng chiến. Nhà văn Tô Hoài nhận xét rất đúng rằng "Đôi mắt là tuyên ngôn nghệ thuật chung của lớp văn nghệ sĩ lúc bấy giờ".

2. Như vậy, Đôi mắt cơ bản là một tác phẩm luận đề, nó muốn đề xuất, tranh luận một vấn đề thuộc về cách nhìn, về lập trường quan điể, về nhân sinh và thế giới quan. Tính hấp dẫn của vấn đề mà Đôi mắt đặt ra đã hút nhiều cây bút phân tích tác phẩm này lao vào cuộc luận chiến tư tưởng, say mê khai thác cái nhìn đúng của Độ, cái nhìn sai của Hoàng, biến bài bình luận văn chương thành bài kiểm điểm tư cách công dân. Đúng là có một nhà tư tưởng Nam Cao trong Đôi mắt - một nhà tư tưởng sâu sắc, không ồn ào mà thâm thúy ý nhị. Nhưng nhà tư tưởng Nam Cao đã gia hòa tuyệt diệu với nhà nghệ sĩ Nam Cao, tạo ra một nụ cười ẩn hiện khắp tác phẩm, một nụ cười trí tuệ thâm thúy, có sức hấp dẫn lớn đối với người đọc. Phải chăng đọc Đôi mắt là đọc được nụ cười rất Nam Cao ấy, đọc ra nhà tư tưởng trong nhà nghệ sĩ chứ không phải là nhà nghệ sĩ trong nhà tư tưởng.

Đầu tiên, hãy khảo sát nhân vật thành công nhất của Đôi mắt là văn sĩ Hoàng. Đọc luận đề Đôi mắt nên đọc từ hình tượng, qua hình ảnh ấy, đồng thời nên thấy nụ cười Nam Cao ẩn hiện trong đó, người đọc sẽ thấy bao nhiêu là thú vị. Chẳng tình cờ chút nào khi Nam Cao chọn điểm xuất phát cho câu chuyện về Hoàng lại bằng hình ảnh con chó Tây hung hăng mở đầu tác phẩm. Một con chó cao lớn như con bê, rất hung tợn, đến mức mỗi lần Độ đến chơi, mặc dù đã được anh Hoàng ra đứng tấn yểm trợ, Độ củng chỉ đủ can đảm bước vội qua đằng sau cái đuôi nó để vào phòng khách. Độ phải thú thực "Tôi rất sợ con chó giống Đức hung hăng ấy. Sợ đến nỗi mỗi lần đến chơi, không thấy anh Hoàng ra đứng tấn để giữ nó mà lại buồn rầu báo cho tôi biết nó chết rồi, thì mặc dầu có làm ra mặt tiếc với anh, thật tình tôi thấy nhẹ cả người". Tại sao câu chuyện về Hoàng lại bắt đầu từ con chó? Phải chăng, trước hết, đó là chi tiết có khả năng đập mạnh vào ấn tượng của người đọc, tạo sức cuốn hút ngay từ đầu. Song quan trọng hơn, Nam Cao muốn gián tiếp gợi ấn tượng hài hước và bao trùm về Hoàng (ông chủ con chó): phú quý - thời dân chết đói đầy đường mà Hoàng vẫn kiếm đủ mỗi ngày vài lạng thịt bò nuôi chó thì đâu phại loại người thường - và dữ dằn nữa. Liền sau hình ảnh con chó dữ (đã chết) là chân dung biếm họa của Hoàng. Đây là loạ chân dung dị dạng khôi hài rất sở trường của Nam Cao, khiến ông dựng Hoàng nổi hình nổi khối lên, cựa quậy rất kì thú: "Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khí to béo quá, vừa bước vừa bơi hai cánh tay kềnh kệnh ta hai bên, những khối thị ở bên dưới nách kềnh ra và trông tun ngủn như ngắn quá". D(úng là một chân dung khiến người đọc phải nhòn ngấy lên. Nam Cao còn bổ sung vào đấy "một cái vành móng ngựa ria" đặc thị dân. Chỉ mới xuất hiện, Hoàng đã hiện lên rất sống: đầy ứ sự no nê múp míp, sự nhàn hạ phong lưu, khiến anh ta trở nên rất chướng trong hoàn cảnh cả một dân tộc đang gian lao kháng chiến.

Qua hồi tưởng của Độ, Nam Cao dùng phép đồng hiện làm hiện ra một Hoàng của quá khứ, tạo thêm bề dày cho hình tượng. Hoàng vốn là kẻ đố kị, cơ hội, lật lọng, giả dối ... Đặc biệt Hoàng có cái tật "đá bạn" một cách đột ngột, có lúc đã ra báo chửi bạn bè.

Nam Cao không đao to búa lớn với Hoàng, như Hoàng đã từng đao to búa lớn báng bổ nông dân. Nhiều chỗ, ngòi bút của nhà văn rất kín, thoáng đọc chẳng thấy gì, nhưng càng ngẫm càng thấy đầy thâm ý. Ví dụ như tả cảnh Hoàng đón Độ. Thoạt nhìn thì có vẻ thân tình, nhìn kĩ thì hóa ra đóng kịch. Hoàng cầu kì, phức tạp, tạo dáng trong một hệ thống động tác, trau chuốt đến cả những cái chìa tay, hé miệng, rồi lâm li kêu lên những tiếng ở trong cổ họng ... Nam Cao đã "kịch hóa" hành động của nhân vật, bắt anh ta phải bộc lộ tận cùng sự giả dối trong bản chất.

Mà nào đã hết. Cái nghề của Hoàng cũng có một điều gì thật bất ổn: Hoàng là một nhà văn kiêm tay buôn chợ đen. Quà là một sự kết hợp cọc cạch, lạc điệu. Nhà văn hướng thiện, tay buôn hướng lợi. Ở Hoàng, nhà văn không lấn át được con buôn mà ngược lại bị "con buôn hóa", nên Hoàng luôn so bì, tính toán, sợ thiệt.

Nhiều người đã cho rằng bản thân cách sống thanh lịch của Hoàng không có gì đáng phê phán cả. Hoàng cũng không phải là phản động, là kẻ thù của kháng chiến. Vậy đánh giá cách sống của Hoàng như thế nào? Phải đặt Hoàng vào hoàn cảnh cả dân tộc kháng chiến. Trong lúc mọi người quên cá nhân mình đi để sống và chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc thì Hoàng lại chăm sóc cá nhân quá kĩ lưỡng: đi tản cư vẫn dùng thuốc lá thơm, chăn bông vẩy nước hoa, mía ướp hương bưởi, nuôi chó béc-giê và còn đủ thời gian tỉa tót vành ria mép ... Đấy là lối sống kiểu cách, xa lạ, vô trách nhiệm, bộc lộ bản chất ích kỉ của Hoàng.


Cách sống ấy có nguyên nhân từ cách nhìn, nhìn lệch thì sống lệch. Cái nhìn của Hoàng củng không phải sai cả, nhưng cơ bản, Hoàng nhìn rất méo mó về nhân dân (đặc biệt là nông dân), về kháng chiến. Người xưa nói "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách". Nhưng Hoàng lại sống rất vô trách nhiệm, ngôi nhà luôn đóng kín cổng của anh như một biểu tượng cho thái độ đứng ngoài cuộc, cho cái lạnh lẽo dửng dưng của kẻ đã khước từ kháng chiến. Ấy thế mà Hoàng lại thích đứng ngoài để chửi đổng - chửi đổng nhân dân, chửi đổng kháng chiến. Hoàng sắc sảo đến hiếm có khi giễu cợt nhân dân: nào là chị dâu bị em đuổi ra vườn mà đẻ; nào là người nhà quê hay nhòm ngó, khách lạ vào làng thì đếm được từng nốt ruồi ở mặt, từng lỗ rách ở ống quần bên trái; nào là người nhà quê thích xét giấy, thích nói chuyện chính trị ... tóm lại là toàn những người "vừa ngố vừa nhặng xị". Hoàng còn có tài bình luận bộc lộ thái độ đánh giá theo kiểu chê bai một cách nồng nhiệt đến trắng trợn."Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối." Đồng minh với thái độ độc ác này là vợ Hoàng. Cô ta nghe chồng kể, khoái trá tới mức cười rú lên, cười đến phát ho, đến chảy cả nước mắt ... Hoàng càng tỏ ra sắc sảo càng trở nên phiến diện. Độ nhận xét rất chính xác: cách nhìn đời, nhìn người của Hoàng là cách nhìn "một phía", (mà lại là phía hiện tượng, phía bên ngoài), hoàn toàn mù mờ về bản chất tốt đẹp bên trong của những người nông dân kháng chiến nên anh tỏ ra khinh bỉ họ đến tàn nhẫn, dẫn đến thái độ bi quan trước tiền đồ của cuộc kháng chiến là một tất yếu. Chính Hoàng tự nhận: "Tôi bi lắm". Bi vì không công nhận vai trò lịch sử của nhân dân, Hoàng chỉ biết sùng bái cá nhân lãnh tụ. Mà Hoàng sùng bái Cụ Hồ một cách ngô nghê, nực cười, nhất là khi Hoàng tỏ ý thương cho Ông cụ: "Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho Ông cụ lắm (...) dù dân mình có tồi đi chăng nữa, Ông cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường". Đây là cái nhìn của một con người bị cầm tù trong chủ nghĩa cá nhân, làm hỏng tư cách công dân lẫn tư cách nhà văn ở Hoàng. Nam Cao để Hoàng thả sức "chửi đổng" đối với cuộc kháng chiến, rồi bất ngờ lại để Hoàng sa vào cái bàn tổ tôm với bọn trí thức cặn bã ở Hà Nội thải về. Nam Cao còn để Hoàng than phiền rằng không có một cái bàn cho ra hồn để viết văn và y ao ước sẽ viết về cái thời này như Vũ Trọng Phụng từng viết Số đỏ. Lại một cơ hội để Nam Cao phơi bày không thương tiếc cái nhìn hời hợt mà tàn nhẫn của Hoàng. Chao ơi! Chỉ có loại người như Hoàng mới dám táo tợn đánh đồng cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc với cái ô hợp, phi lý thời Vũ Trọng Phụng, đặt cuộc kháng chiến trong một cái nhìn giễu cợt. Đến đây thì toàn bộ bản chất của Hoàng đã bị lột trần trước tiếng cười biêm họa sắc sảo, thâm thúy của Nam Cao.

3. Hoàng tràn ngập trong Đôi mắt, nhưng nói thế giới của Đôi mắt là thế giới của Hoàng thì lại không ổn. Vì cạnh Hoàng là Độ. Cuộc gặp gỡ giữa Hoàng và Độ là cuộc gặp gỡ của hai cái nhìn, hai cách sống trái ngược. Độ là một nhà văn cũ nhưng có cái nhìn mới, sống gắn bó với kháng chiến. Nếu Hoàng đầy ắp ngôn ngữ đến mức ngoa ngoắt thì Độ lài đầy ắp suy tư. Hai nhân vật tương phản nhau gay gắt ở cả tính cách, cái nhìn lẫn bút pháp miêu tả của Nam Cao.

Truyện còn có một chi tiết rất dí dỏm: do Độ từng ngủ chung với công nhân xưởng in, nên khi nằm chung với Hoàng, Độ lo ngay ngáy mấy con rận trong bộ quần áo tây của mình "du lịch" sang cái chăn bông thoang thoảng mùi nước hoa của Hoàng. Một chi tiết nhỏ ma đủ dựng lên thế đối lập hài hước giữa hai cách sống: chiếc chăn bông thơm nức sự sang trọng là chân dung của một lối sống xa hoa lạc lõng, còn bộ quần áo tây có "cái giống kí sinh trùng hay phản chủ ấy" lại tiêu biểu cho lối sống gắn bó với nhân dân kháng chiến đang lam lũ trong cuộc đấu tranh sinh tử.

Nhưng phép tương phản của Nam Cao chỉ tỏ ra sâu sắc nhất là lúc nhà văn đặt Độ và Hoàng cùng đứng trước một tình thế: anh nông dân đọc thuộc lòng bài "ba giai đoạn". Đây là phép thử quan trọng nhằm phân biệt triệt để hai con người rất khác nhau này. Điều gì đã xảy ra? Hoàng nồng nhiệt phì ra bao nhiêu khinh bỉ cùng những triết lí tăm tối, trong lúc Độ chỉ lặng lẽ hạ một nhận xét ngắn "Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài "ba giai đoạn" nhưng anh không trông thấy bó tra anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù". Nhận xét này vạch rõ sự khác biệt giữa hai kiểu tư duy: Hoàng thiên về cái nhìn bề ngoài nên hời hợt, bi quan, tàn nhẫn; Độ hướng cái nhìn vào bản chất , mục đích nên thông cảm, tin yêu nhân dân. Cái nhìn của Độ thể hiện một quá trình phát triển, từ phiến diện đến toàn diện. Độ bộc lộ chân thành: trước củng nghi ngờ sức mạnh của quần chúng, nay đã thấy những anh "rang đen mắt toét", "gọi lựu đạn là nựu đạn" mà "lúc ra trận thì cung phong can đảm lắm". Miêu tả quá trình chuyển hóa của Độ, ngòi bút Nam Cao tăng thêm sức mạnh chân thực, giàu thuyết phục. Độ cũng thuộc lớp nhà văn cũ đi theo kháng chiến, kịp rũ bỏ tư tưởng lạc hậu để có đôi mắt mới, tình cảm mới. Nhìn đời, nhìn người đúng, Độ đã biết hòa nhập với kháng chiến, với nhân dân. Sự đối lập giữa Độ và Hoàng là sự đối lập giữa cái mới và cái cũ. Miêu tả sự đối lập đó, tác giả Nam Cao nhằm tăng sức phê phán cái cũ, khẳng định cái mới.

4. Đúng như Tô Hoài đánh giá, Đôi mắt là một bản tuyên ngôn nghệ thuật. Đại hội văn hóa toàn quốc năm 1948 kêu gọi trí thức và văn nghệ sĩ "Kháng chiến hóa văn hóc, văn hóa hóa kháng chiến". Nhạy cảm với phương hướng đó, Đôi mắt trở thành tuyên ngôn về cái nhìn tin yêu đối với nhân dân và thời đại, tuyên ngôn về chỗ đứng của nhà văn trong kháng chiến: Hãy biết tin vào sức mạnh nhân dân, hãy biết đứng vào hàng ngũ của họ, đem tài năng dâng hiến cho sự nghiệp cách mạng. Đôi mắt còn là tuyên ngôn về một quan điểm mĩ học mới: cái đẹp thuộc về nhân dân, nhân dân là nhân vật trung tâm, là nguồn cảm hứng lớn của nền văn nghệ mới. Đây là vấn đề sinh tử, là chân lí muôn đời của nghệ thuật. Một nền nghệ thuật đánh mất nhân dân là một nền nghệ thuật tự diệt.

Đặt trong thế giới nhân vật trí thức khá đông đúc của Nam Cao (như Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, Điền trong truyện ngắn Trăng sáng, Hài trong truyện ngắn Mua nhà, Thứ, Đích San ... trong tiểu thuyết Sống mòn ... ), nhân vật Độ và Hoàng thể hiện tài nghệ xuất sắc của Nam Cao trong việc miêu tả nhân vật. Nhân vật của ông sâu sắc về tư tưởng mà không khô khan trong khái niệm, vừa giàu cá tính mà vẫn rất khái quát, có thể từ trang sách bước ra cuộc đời. Ở hình tượng nhân vật Hoàng, ông đã phối hợp miêu tả được cả chân dung, hành vi với ngôn ngữ, giọng điệu rất nhuần nhuyễn khiến Hoàng như một con người có thật, rất thật, đang hung hăng cười nói, tức giận, sùi cả bọt mép trước mắt ta. Vị như cách Nam Cao kết thúc thiên truyện bằng cái vỗ đùi đắc ý và lời khen Tào Tháo của Hoàng - một chi tiết thật tài năng, cực tả cảm xúc hết mình của Hoàng với một thế giới xưa cũ trong sách, trong khi rất thờ ơ với cuộc đời kề cận. Đó là một niềm vui lạc lõng như thứ quá trái mùa của đôi mắt nhìn đời, nhìn người lệch về một phía. Tài năng của Nam Cao chính là ở sự kết hợp sâu sắc giữ tính tư tưởng đầy sức khái quát với tình hình tượng cực kì sinh động này.
Đề 2: Phân tích văn sĩ Hoàng trong "Đôi mắt" của Nam Cao để làm sáng tỏ chủ đề tác phẩm.


* Gợi ý:


Ta đã từng tiếp xúc với những Điền, những Hộ, với một Chí Phèo, một Lão Hạc của Nam Cao trong những sáng tác trước cách mạng! Ta đã bắt gặp được ở đó nhưng người dân quê lam lũ nghèo nàn, sớm tối quần quật với cây cày lưỡi cuốc, bị biến chất bởi xã hội đen tối xấu xa. Ta đã nhìn thấy và thông cảm đớn đau cùng với nỗi bi kịch tinh thần đang chất chứa, xâu xé tâm hồn của những người trí thức nghèo trong xã hội. Những con người ấy dường như được tập hợp lại để trở thành một hệ thống nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao!

Sau cách mạng một thời gian, ta lại được tiếp xúc với những tác phẩm mới của ông. Và, ta chợt ngỡ ngàng và không nén nổi cái thú vị trước một hình tượng nhân vật mới của Nam Cao! Đó là Hoàng trong Đôi mắt.

Ở đây, nhân vật trung gian được phản ánh qua câu chuyên cũng là một trong những nhân vật nằm trong hệ thống quen thuộc của Nam Cao. Hoàng được giới thiệu với chúng ta cũng dưới tư cách là một nhà văn, nghĩa là cũng sử dụng ngòi bút để làm một cái nghề cao quý. Nhưng có lẽ không hoàn toàn là một nhân vật Điền luôn đớn đau day dứt trong Trăng sáng như ngày xưa. Ở đây Hoàng hiện lên với hình cảnh của một nhà văn có tư cách của một con buôn giữa chợ đen. Cũng sử dụng ngòi bút nhưng Hoàng chưa một lần phải băn khoăn day dứt, phải tự đối diện và suy ngẫm cùng chính bản thân mình về thiên chức của một nhà văn., chưa một lần nào Hoàng dằn vặt đớn đau với những "dòng văn chương viết dễ dãi, cẩu thả và vô nghĩa lý". Nói đúng hơn là chưa bao giờ Hoàng tự nghĩ về trách nhiệm xã hội của mình đối với nghề văn. Trong Hoàng, dường như cái ý nghĩ "Là nhà văn thì trong suốt cuộc đời không thể cho phép mình sống thờ ơ, ích kỉ" đã chưa từng tồn tại, Hoàng sống giữa cuộc đời, cũng tính toán suy tư, nhưng đó lài là những "suy tư" làm sao để có thể được an nhàn hưởng thụ. Hoàng chấp nhận và ca tụng một lối sống ích kỉ, chỉ biết lo và nghĩ đến một bản thân mình. Hoàng sẵn sàng đặt lợi ích cá nhân lên trên tất cả.

"Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội" (Mác). Một cuộc sống có ý nghĩa là một cuộc sống có cho và có nhận. Anh phải sống vì anh và vì cả mọi người. Thực ra, nếu suy xét cho đến tận cùng, thì việc đem lại hạnh phúc cho người khác cũng chính là đem đến hạnh phúc cho chính bản thân mình, và hơn nữa, đó có thể được coi như là một nhiệm vù phải được làm ở mỗi người:


"Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu phải nhận riêng mình"


Trong Đôi mắt, thông qua nhân vật Hoàng, Nam Cao đã nêu bật lên một vấn đề có ý nghĩa vĩnh cửu. Nó day dứt những người làm nghệ thuật. Bất kì một nhà văn bào mà lại không cần đến "đôi mắt" và cái nhìn đứng đắn để khám phá và sáng tạo thực tại. Nhưng, nếu có một "đôi mắt" như Hoàng thì không nên có và quả thực không cần phải có, nhất là cho những người làm nghệ thuật! Với đôi mắt ấy, Hoàng dường như đã bị "mù" trước thời đại. Những người kháng chiến trú thức nhập cuộc sẵn sàng "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", hay như trong lời một bài hát "Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi, nào có sá chi đến ngày trở về. Ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà chết chớ lui", nhưng với Hoàng, và trong "đôi mắt" Hoàng, thì người nông dân, lực lượng chuẻ yếu của kháng chiến chỉ là một lũ "đần độn, lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, bần tiện cả"! Anh nhìn họ với đôi mắt "thiếu tình thương, thiếu trân trọng". Những gì mà anh nói về họ không phải là không có cơ sở, tuy nhiên nói theo Nam Cao là "chỉ nhìn thấy những cái ngố bề ngoài mà không thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong", chính vì "vẫn giữ đôi mắt ấy đề nhìn", nên nếu nhìn càng nhiều, càng quan sát lắm thì chỉ càng thêm "chua chát và chán nản" mà thôi. Hoàng nhìn cuộc kháng chiến một cách bi quan, dù cho có được một chút thán phục người lãnh tụ. Nhưng nếu xét kĩ thì cái "chút xíu" tin tưởng ấy là xuất phát từ cái nhìn duy tâm, do sự sùng bái cá nhân. Chỉ thán phục có "ông cụ" như đã từng đắc ý với Tào Tháo. Hoàng đã thực sự sống xa rời quần chúng, chính vì vậy nên anh đánh giá không hết những khả năng của họ.

Đối với Độ, một con người sống gần gũi, hòa nhập với sinh hoạt và gắn bó với quần chúng lao động thì lại bị Hoàng cho là "làm một anh tuyên truyền nhãi nhép". Độ nhìn người nông dân với cái nhìn "người nông dân nước mình vẫn còn có thể làm cách mạng mà làm cách mạng thì hăng hái lắm, và can đảm lắm", anh nhìn họ bằng cái nhìn đầy nâng niu và trìu mến khác hẳn với Hoàng là khinh khi miệt thị họ, phần đông họ "dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, chịu nhục một cách đáng thương". Hoàng không như Độ có thể cảm thông trước những tật xấu của người nông dân, để hiểu được họ và đánh giá đúng mức sự đóng góp của họ vào kháng chiến. Sống với một cuộc sống trưởng giả giàu sang nên Hoàng không thể từ bỏ nó để hòa mình vào bầu không khí chung của dân tộc. Anh đứng bên lề cuộc chiến, nhìn đời bằng đôi mắt thiển cận, thản nhiên với tình cảnh dầu sôi lửa bỏng, vô tình với cái vận mệnh đang "ngàn cân treo sợi tóc" của đất nước nhân dân. Trong cảnh tản cư mà Hoàng vẫn thuê được một căn nhà khang trang với "cái sàn gạch" đàng hoàng, vẫn "nuôi chó Tây" và "màn chăn rắc nước hoa sực nức", cả cái thú vui yên bình đêm đêm mằm đọc truyện Tam Quốc. Dỉ nhiên sống giàu sang, ung dung thư thái như thế thì không có hại cho ai, và nếy nhìn kĩ thì đó chính là cách sống của những ngu7òi có văn hóa cần đáng được biểu dương và ca tụng. Nhưng điều đáng nói ở đây là tình cảnh đất nước đang cần những người "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", bao người đã và đang sẵn sàng giũ áo ra đi sằn sàng hi sinh và cống hiến bao xương máu, bao nhà văn đã tự nguyên lột xác để đến với nhân dân, với dân tộc, với trách nhiệm công dân. Xuân Diệu, Nguyễn Tuân đã hi sinh cái sở trường tình yêu và sở thích "nhâm nhi chén trà trong sương sớm" để cho giọt mực thấm đẫm cái sức ấm nóng của thời đại, thì lối sống của Hoàng quả thực là lối sống của một con người vô trách nhiệm, nhẫn tâm đến vô tình ác độc. Nó biểu hiện tư chất của một co người ích kỉ, sống chỉ lo đến lợi ích của bản thân mình!

Nam Cao đã xây dựng nên nhân vật Hoàng bằng một nghệ thuật vô cùng độc đáo. Hoàng "được" Nam Cao mổ xẻ về cái xấu cả nhân hình lẫn nhân tính. Ghét cay ghét đắng Hoàng lẫn cái "tuýp" người như Hoàng trong xã hội đương thời, Nam Cao đã rất thâm thúy khi đặt Hoàng ở bên cạnh con chó của anh ta. Con chó Hoàng chết, "chết không phải vì chủ nó không tìm nổi mỗi ngày vài lạng thịt bò đế nó ăn, mà nó chết có lẽ vì chén phải thịt người ươn hay vì hít phải mùi xú khí". Thật độc đáo làm sao khi Nam Cao cũng để cho Hoàng đã một lần cũng "nhăn mũi như ngửi mùi xác thối", con chó của Hoàng đã chết vì mùi xú khí, thì Hoàng cũng sẽ chết, chết như chính con chó của Hoàng thôi. Đó là một sự báo mà cũng chính là một điều tất yếu sẽ xảy ra với bản thân nhân vật.

Như vậy, từ vô số những "đôi mắt" ích kỉ, vô tâm như vậy ở ngoài đời, Nam Cao đã hệ thống lại để đưa vào tập trung mọi bản chất trong cùng một con người, chính vì vậy nên nhân vật Hoàng có giá trị điển hình rất cao. Một con người "bước thong thả từ từ vì người anh quá béo, vừa bước vừa bơi bơi hai cánh tay kềnh kệnh ra hai bên. những khối u ở hai bên nách kềnh ra, tủn mủn vì quá ngắn", phải chăng là biểu tượng của một con người luôn bơi ngược dòng thời đại. luôn là một vật cản đối với xã hội đường thời? Xây dựng nhân vật bằng những nét điển hình độc đáo, bằng những chi tiết tả thực để từ đó có thể lột tả hết những bản chất sâu xa bên trong của mỗi con người. Đó chính là một thành công khá xuất sắc của Nam Cao - một nhà văn lớn của văn học Việt Nam.

(Giảng viên: thầy Nguyễn Văn Phùng - cố GV lớp dự bị ĐHSP & ĐHNT)
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #14  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Bài văn điểm 10 kì thi ĐH 2008
TS Nguyễn Trung Ngân đã đạt điểm 10 môn Văn đầu tiên trong mùa tuyển sinh năm nay. Ngân cũng là thí sinh đạt điểm cao nhất khối D vào ngành Tài chính của trường DH Can Tho với tổng 25 điểm.


Câu 1 (2 điểm): Anh/ chị hãy nêu những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.



Nam Cao là một nhà văn lớn của nền văn học hiện thực
phê phán nói riêng và là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam nói
chung. Sở dĩ Nam Cao có một vị trí xứng đáng như vậy bởi cả cuộc đời
cầm bút của mình, ông luôn trăn trở để nâng cao "Đôi Mắt" của mình. Tất
cả những gì Nam Cao để lại cho cuộc đời chính là tấm gương của một
người "trí thức trung thực vô ngần" luôn tự đấu tranh để vươn tới những
cảnh sống và tâm hồn thật đẹp. Với những nét tiêu biểu như vậy, Nam Cao
đã thể hiện qua một hệ thống các quan điểm sáng tác của mình trước cách
mạng tháng Tám.



Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng
tháng Tám được thể hiện qua "Trăng Sáng" và "Đời Thừa". Trong "Trăng
Sáng", nhà văn quan niệm văn chương nghệ thuật phải "vị nhân sinh", nhà
văn phải viết cho hay, cho chân thực những gì có thật giữa cuộc đời,
giữa xã hội mà mình đang sống. Ông viết "Chao ôi! Nghệ thuật không là
ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể
chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than". Đó
chính là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Trước cách mạng, Nam Cao
mang tâm sự u uất, đó không chỉ là tâm trạng của một người nghệ sĩ "tài
cao, phận thấp, chí khí uất" (Tản Đà) mà đó còn là tâm sự của người
người trí thức giàu tâm huyết nhưng lại bị xã hội đen tối bóp nghẹt sự
sống. Nhưng Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà ông trở nên khinh bạc.
Trái lại ông còn có một trái tim chan chứa yêu thương đối với người dân
nghèo lam lũ. Chính vì lẽ đó mà văn chương của ông luôn cất lên "những
tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than".



Trong "Đời thừa", một tác phẩm tiêu biểu của văn Nam
Cao trước cách mạng, Nam Cao cũng có những quan điểm nghệ thuật. Khi mà
ta đã chọn văn chương nghệ thuật làm nghiệp của mình thì ta phải dồn
hết tâm huyết cho nó, có như thế mới làm nghệ thuật tốt được. "Đói rét
không có nghĩa lý gì đối với gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp.
Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật
chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở.
Hắn đọc, suy ngẫm, tìm tòi, nhận xét, suy tưởng không biết chán. Đối
với hắn lúc ấy, nghề thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đáng
quan tâm nữa...". Nam Cao còn quan niệm người cầm bút phải có lương tâm
và trách nhiệm đối với bạn đọc, phải viết thận trọng và sâu sắc: "sự
cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là sự bất lương rồi, còn sự cẩu thả
trong văn chương thì thật là đê tiện". Với Nam Cao, bản chất của văn
chương là đồng nghĩa với sự sáng tạo "văn chương không cần đến những
người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưa
ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Quan điểm của Nam Cao là, một
tác phẩm văn chương đích thực phải góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn
đọc: Nó phải chứa đựng một cái gì đó vừa lớn lao vừa cao cả, vừa đau
đớn vừa phấn khởi: "Nó ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình,
nó làm người gần người hơn".



Văn nghiệp của Nam Cao (1915-1951) chủ yếu được thể
hiện trước cách mạng tháng Tám. Quan điểm sáng tác thể hiện trong hai
truyện "Trăng Sáng" và "Đời Thừa" giúp ta hiểu sâu hơn về Nam Cao. Qua
đó, ta thấy được những đóng góp về nghệ thuật cũng như tư tưởng của Nam
Cao cho văn học Việt Nam. Từ đấy giúp ta hiểu vì sao Nam Cao - một nhà
văn chưa tròn bốn mươi tuổi lại để lại cho cuộc đời một sự nghiệp văn
chương vĩ đại đến như vậy.



Câu 2 (5 điểm): Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).



Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng
A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây
dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài.
Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài
đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi,
chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô
Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm
sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa.
Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật,
trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và
hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự
phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của
nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị
hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.



Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng
nhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng
cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của một con người cam chịu,
buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị
có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử.
Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà
mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần
quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con
dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng,
nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm
Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá
ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen
khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình,
trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.



Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của
một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống
đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.



Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển
theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc
trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát
người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa...
Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng
sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy
chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn
của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là
một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau
hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm
cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.



Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời
trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ
cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống
tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi
đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị
vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời
lên ở chỗ đó.



Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là
những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông
rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp
lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói
đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa
hơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại
lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết
là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với
điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ,
Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người
khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả
rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị
lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt
lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của
một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng
nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị.
Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân
trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi
xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống
mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho
nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó
bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý
trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết
còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một
người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải
lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không
bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế
mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau
khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt
ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây
thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay
thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người
kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”.
Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết
vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A
Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột
tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là
có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời,
yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu
thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi
trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không
đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh”
của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người
cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp
Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số
phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến
cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với
hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một
việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí
của Mị trong đêm mùa đông này.



Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ
mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng
“đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng
trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối
của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ
hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc
Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng
đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa
phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị
đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm
câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao
khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết
bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân
- hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của
mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời
bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi
buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ
Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng
chưa biết đến…



Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng
đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên
số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự
cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những
phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ
nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số
phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy
cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa
còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở
đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí
muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống
lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm
này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.



Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập
“Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong
thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc
dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu
tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm
“Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do
Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ”
thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị
nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn
này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.



Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm
thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây
quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo
hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời
thừa”.



Phần riêng (3 điểm): Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử:



Gió theo lối gió mây đường mây



Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay



Thuyền ai đậu bến sông trăng đó



Có chở trăng về kịp tối nay?



Cảm nhận thơ trữ tình xét cho cùng là cảm nhận "cái
tình" trong thơ và tâm trạng của nhân vật trữ tình trước thiên nhiên,
vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca lãng mạn Việt Nam, giai đoạn 1932
-1945 "ta thoát lên trên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình
cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm
say cùng Xuân Diệu" (Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam). Đúng thế, bạn đọc
đương thời và hôm nay yêu thơ của Hàn Mặc Từ bởi chất "điên cuồng" của
nó. Chính "chất điên" ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo,
riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử. "Chất điên" trong thơ ông chính là
sự thay đổi của tâm trạng khó lường trước được. Nét phong cách đặc sắc
ấy đã hội tụ và phát sáng trong cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của nhà thơ
rất tài hoa và cũng rất đỗi bất hạnh này. "Đây thôn Vĩ Dạ" trích từ tập
Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Chất điên cuồng ấy thể hiên cụ thể và rõ nét
trong khổ thơ:



"Gió theo lối gió mây đường mây



Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay



Thuyền ai đậu bến sông trăng đó



Có chở trăng về kịp tối nay?"



Với lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với thôn Vĩ Dạ trong mộng tưởng:



“Sao anh không về chơi thôn Vĩ



Nhìn nắng hàng cây nắng mới lên



Vườn ai mướt quá xanh như ngọc



Lá trúc che ngang mặt chữ điền”



Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ - một làng kề sát thành phố Huế
bên bờ Hương Giang với những vườn cây trái, hoa lá sum suê hiện lên
thật nên thơ, tươi mát làm sao. Đó là một hàng cau thẳng tắp đang tắm
mình dưới ánh “nắng mới lên” trong lành. Chưa hết, rất xa là hình ảnh
“nắng hàng cau nắng mới lên” còn rất gần lại là “vườn ai mướt quá xanh
như ngọc”. “Mướt quá” gợi cả cây non tràn trề sức sống xanh tốt. Màu
“mướt quá” làm cho lòng người như trẻ hơn và vui tươi hơn. Lời thơ khen
cây cối xanh tốt nhưng lại như huyền ảo, lấp lánh mới thấy hết cẻ đẹp
của “vườn ai”. Trong không gian ấy hiện lên khuôn “mặt chữ điền” phúc
hậu, hiền lành vừa quen vừa lạ, vừa gần, vừa xa, vừa thực vừa ảo bởi
“lá trúc che ngang”. Câu thơ đẹp vì sự hài hòa giữa cảnh vật và con
người. “Trúc xinh” và “ai xinh” bên nhau làm tôn lên vẻ đẹp của con
người. Như vậy tâm trạng của nhân vật trữ tình ở đoạn thơ này là niềm
vui, vui đến say mê như lạc vào cõi tiên, cõi mộng khi được trở về với
cảnh và người thôn Vĩ.



Thế nhưng cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng
thời gian có sự biến đổi từ “nắng mới lên” sang chiều tà. Tâm trạng của
nhân vật trữ tình cũng có sự biến đổi lớn. Trong mắt thi nhân, bầu trời
hiện lên “Gió theo lối gió mây đường mây” trong cảnh chia li, uất hận.
Biện pháp nhân hóa cho chúng ta thấy điều đó. “Gió theo lối gió” theo
không gian riêng của mình và mây cũng thế. Câu thơ tách thành hai vế
đối nhau; mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh “gió”, khép lại cũng bằng gió;
mở đầu vế thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Từ đó cho ta thấy
“mây” và “gió” như những kẻ xa lạ, quay lưng đối với nhau. Đây thực sự
là một điều nghịch lí bởi lẽ có gió thổi thì mây mới bay theo, thế mà
lại nói “gió theo lối gió, mây đường mây”. Thế nhưng trong văn chương
chấp nhận cách nói phi lí ấy. Tại sao tâm trạng của nhân vật trữ tình
vốn rất vui sướng khi về với thôn Vĩ Dạ trong buổi ban mai đột nhiên
lại thay đổi đột biến và trở nên buồn như vậy?. Trong mộng tưởng, Hàn
Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lòng lại buồn chắc có lẽ bởi mối
tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huế
mộng mơ làm nên tâm trạng ấy. Quả thật “Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ” nên cảnh vật xứ Huế vốn thơ mộng, trữ tình lại bị nhà thơ miêu tả
vô tình, xa lạ đến như vậy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng chẳng vui gì
hơn khi “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.



Dòng Hương Giang vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vào
thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại “buồn thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm,
không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính là con sóng lòng "buồn thiu”
của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng sông buồn, bãi bờ
của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp xám khô héo, úa
tàn đang “lay” rất khẽ trong gió. Cảnh vật trong thơ buồn đến thế là
cùng. Thế nhưng đêm xuống, trăng lên, tâm trạng của nhân vật trữ tình
lại thay đổi:



“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó



Có chở trăng về kịp tối nay”



Sông Hương “buồn thiu” lúc chiều dưới ánh trăng đã
trở thành “sông trăng” thơ mộng. Cắm xào đậu bên trên con sông đó là
“thuyền ai đậu bến”, là bức tranh càng trữ tình, lãng mạn. Hình ảnh
“thuyền” và “sông trăng” đẹp, hài hòa biết bao. Khách đến thôn Vĩ cất
tiếng hỏi xa xăm “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu “thuyền ai” đó có
chở trăng về kịp nơi bến hẹn, bến đợi hay không? Câu hỏi tu từ vang lên
như một nỗi lòng khắc khoải, chờ đợi, ngóng trông được gặp gương mặt
sáng như “trăng’ của người thôn Vĩ trong lòng thi nhân. Như thế mới
biết nỗi lòng của nhà thơ giành cho cô em gái xứ Huế tha thiết biết
nhường nào. Tình cảm ấy quả thật là tình cảm của “Cái thưở ban đầu lưu
luyến ấy. Ngàn năm nào dễ mấy ai quên” (Thế Lữ).



Đến đây ta hiểu thêm về lòng “buồn thiu” của nhân vật
trữ tình trong buổi chiều. Như vậy diễn biến tâm lí của thi nhân hết
sức phức tạp, khó lường trước được. Chất “điên” của một tâm trạng vui
với cảnh, buồn với cảnh, trông ngóng, chờ đợi vẫn được thể hiện ở khổ
thơ kết thúc bài thơ này:



“Mơ khách đường xa khách đường xa



Áo em trắng quá nhìn không ra



Ở đây sương khói mờ nhân ảnh



Ai biết tình ai có đậm đà?”



Vẫn là một tâm trạng vui sướng được đón “khách đường
xa” - người thôn Vĩ đến với mình, tâm trạng nhân vật trữ tình lại khép
lại trong một nỗi đau đớn, hoài nghi “Ai biết tình ai có đậm đà?”. “Ai”
ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ chính tác giả. Chẳng biết người
thôn Vĩ có còn nặng tình với mình không? Và chẳng biết chính mình còn
mặn mà với “áo em trắng quá” hay không? Nỗi đau đớn trong tình yêu
chính là sự hoài nghi, không tin tưởng về nhau. Nhân vật trữ tình rơi
vào tình trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình để mọi người hiểu và thông
cảm. Cái mới của thơ ca lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945 cũng ở đó.



Đọc xong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử,
nhất là khổ thơ “Gió theo lối gió -…. kịp tối nay” để lại trong lòng
người đọc những tình cảm đẹp. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm tâm tư của một
nhà thơ sắp phải giã từ cuộc đời. Lời thơ vì thế trầm buồn, sâu lắng,
đầy suy tư.



Bạn đọc đương thời yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi thi
nhân đã nói hộ họ những tình cảm sâu lắng nhất, thầm kín nhất của mình
trong thời đại cái “tôi”, cái bản ngã đang tự đấu tranh để khẳng định.
Tình cảm trong thơ Hàn Mặc tử là tình cảm thực, do đó nó sẽ ở mãi trong
trái tim bạn đọc. Ấn tượng về một nhà thơ của đất Quảng Bình đầy nắng
và gió sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí người Việt Nam.
__________________
Have a troble, no problem, just a zero when we are united
United we stand, divided we fall
NTH United
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #15  
Old 08-04-2009
Sleepingchild
Sleepingchild Sleepingchild vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
NTHer-NUer
Member
 
Tham gia ngày: Nov 2008
Nơi cư ngụ: Hell & Heaven
Bài gửi: 453
Cám ơn: 141
Được cám ơn 95 lần trong 53 bài viết
Send a message via Yahoo to Sleepingchild Send a message via Skype™ to Sleepingchild
Đề bài: So sánh và phân tích những vẻ đẹp khác nhau của hai hình tượng người lính thời kì kháng chiến chống Pháp trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Đồng chí của Chính Hữu.


A-Gợi ý cụ thể

1, Hai bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí cùng ra đời năm 1948.

Hai tác giả Quang Dũng và Chính Hữu đều cùng trong quân ngũ( nhà thơ quân đội). Cả hai sáng tác cùng nói về vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống Pháp, tuy vậy có những nét khác nhau.

2, Người lính trong Tây Tiến.
a) Xuất thân: Từ đô thành, chiến sĩ Tây Tiến (trong đó có tác giả) số đông ra đi từ Hà Nội thanh lịch. Họ là những thanh niên có học. Và vì vậy họ mới có lúc “Đêm mơ Hà Nội”.
b) Bối cảnh hoạt động: Người lính Tây Tiến hiện ra trong khung cảnh rừng núi miền Tây Tổ quốc vừa hùng vĩ, vừa hiểm trở, hoang dại khác thường. Đó là những “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” , “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”; Đó là còn nơi “thác gầm thét, cọp trêu người” khiến cho có khi cả “đoàn quân mỏi” trong sương lấp, có lúc người lính “không bước nữa”…
c) Đặc điểm: Chiến binh Tây Tiến mang vẻ đẹp khác thường. Hình tượng các anh nổi lên vừa hào hùng, dữ dội lại vừa hào hoa, mơ mộng.
- Hào hùng, dữ dội trong dnág vẻ ngoại hình: Cả đoàn binh “không mọc tóc”, “dữ oai hùm” lại còn “mắt trừng “ nữa. Các anh trở nên khác lạ sau những cơn sốt rét rừng ác liệt, sau những cuộc hành quân “vượt cồn mây”, “súng ngửi trời”. Đầu không còn tóc, người xanh xao nhưng người lính vẫn rất oai phong, vẫn như mang cả hồn thiêng của rừng thẳm.
- Hào hùng trong ý chí: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước không ngại ngần, tiếc nuối. CáI chết rình rập và “rải rác biên cương mồ viễn xứ” cũng không cản bước ra chiến trường giữ vững vùng đất biên giới Việt Lào.
- Hào hùng ngay trong cái chết:
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành..
Người chiến sĩ về với đất trong hoàn cảnh có thể nói là rất buồn. Theo tác giả cho biết thì đồng đội ông nãg xuống, ngay manh chiếu bó thân cũng không có, nhưng sự ra đi vĩnh viễn đó thật anh hùng. Con sông Mã thay lời núi sông cất lên lời ai điếu hùng tráng tiễn đưa người chiến sĩ.
-Hào hoa, mơ mộng ở tâm hồn, lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Tâm hồn phải hết sức hào hoa mới “gửi mộng qua biên giới” và mơ về dáng kiều thơm.Người chiến sĩ đẹp trong giấc mơ đep,mơ dáng kiều diễm,thanh lịch,quyến rũ của người phụ nữ thủ đô.Đối đầu với nhọc nhằn, chết chóc, anh vẫn không quên một dáng hình thanh thú, toả hương. Chính dáng hình này tiếp sức cho anh bộ đội đi tới. Ta chợt nhớ lại câu thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
(Đất nước)
Tóm lại, tái tạo vẻ đẹp người lính Tây tiến, nhà thơ đã sử dụng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn cách mạng. Chính cảm quan lãng mãn khiến tác giả chú ý đến vẻ đẹp khác thường của đồng đội.

3.Người lính trong Đồng chí:
a) Xuất thân: Đó là những người nông dân mặc áo lính. Các anh ra đi từ những làng quê nghèo:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
b) Bối cảnh hoạt động: Các anh cầm súng chờ đợi giặc nơi rừng hoang sương muối. Cảnh ở đây không rõ nét hiểm trở,hoang vu như vùng núi người lính Tây tiến hiện diện ( với dốc,thác,nước lũ,cọp trêu người…)
c) Đặc điểm: Ngừời chiến sĩ dưới ngòi bút Chính Hữu mang vẻ đẹp bình dị. Các anh hiện ra với dáng vẻ:
-Chất phác: Nhớ về quê hương,các anh nhớ về gian nhà trống ,nhớ về giếng nước gốc đa rất đỗi quen thuộc. Còn người lính Tây Tiến nhớ quê hương là nhớ “dáng kiều thơm” có phần mĩ lệ, kiêu sa hơn.
-Lam lũ: Trang phục của chiến sĩ trong Đồng chí có phần thiếu thốn.Hình ảnh thực của người nông dân mặc áo lính:
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.
Chính Hữu tả hiện thực rõ nét đến từng chi tiết.
Quang Dũng cũng có nói đến những thiếu thốn,gian truân của đồng chí nhưng thơ ông hướng tới vẻ oai hùng của người lính.
Cũng với việc tả căn bệnh sốt rét tác động đến người chiến sĩ, Chính Hữu tả thực:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Còn Quang Dũng nghiêng về tả vẻ khác lạ,khác thường lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Như vậy bút pháp của Chính Hữu trong Đồng chí là búp pháp tả thực.Ông chú trọng vẻ đẹp của tình đồng chí – những người chung quân ngũ,chung lý tưởng chiến đấu. Còn Quang Dũng đã khái quát vẻ đẹp chung của người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân và hoạt động ở vùng biên giới xa xăm, nhiều hiểm trở.
Nhìn chung lại, tuy hai hình tượng người lính này mang những vẻ đẹp khác nhau ( nông dân và trí thức, địa bàn hoạt động và quan hệ với nhân vật trữ tình….) nhưng làm hoàn chỉnh bức chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong buổi đầu tiến hành cuộc cách mạng kháng chiến chín năm chống Pháp

   :: Các tin khác

 
Điện thoại : 0511.3691445 - 0511.3656697 * Email: quangtrung.thpt@yahoo.com
* - Website: thptquangtrung.vn * Website : thpt-quangtrung-danang.edu.vn