ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NGỮ
VĂN LỚP 12 HKII NH 2019-2020. VỢ CHỒNG A
PHỦ (Tô Hoài) I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM Tô Hoài (1920 – 2014) là nhà văn xuất sắc của
văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú về phong
tục tập quán nhiều vùng miền của nước ta. Tô Hoài có lối văn kể chuyện tự
nhiên, sinh động, ngôn ngữ tài ba. Truyện ngắn “VCAP” là tác phẩm tiêu biểu, được
in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm
phản ánh cuộc sống tăm tối tủi nhục của người dân nghèo trước ách áp bức của bọn
cường hào và sức sống mãnh liệt tiềm tàng nơi họ. II. TÌM HIỂU NHÂN VẬT MỊ 1. Cách giới thiệu nhân vật Mị của
tác giả rất độc đáo: - Ngay từ những dòng đầu tiên, tác giả tả Mị
ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa… “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi
cõng nưóc dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi’ - Mị xuất hiện không phải ở phía chân dung ngoại
hình mà ở phía thân phận- một thân phận quá nghiệt ngã- một con người bị xếp lẫn
với những vật vô tri giác : tảng đá, tàu ngựa… trong khung cảnh đông đúc tấp nập
của gia đình nhà thống lí Pá tra - NT đối cho thấy con dâu trong một gia đình
quyền thế, giàu có nhưng lúc nào cũng cúi mặt, buồn rười rượi. -> Đây chính là thủ pháp tạo tình huống
trong lối kể chuyện truyền thống thôi thúc người đọc tìm hiểu bí ẩn số phận
nhân vật. 2.Trước khi về làm dâu: - Mị xinh đẹp, hiếu thảo, siêng năng cần cù,
thổi sáo hay, có nhiều người thồi sáo đi theo Mị, trai đến đứng nhẵn vách đầu
buồng Mị. Mị đã yêu và được yêu. - Mị có cảnh ngộ éo le: cha Mị thiếu nợ nhà thống
lí nên Mị phải làm con dâu để trừ nợ. - Mị đã nghĩ cách cứu mình, Mị van cha: “Con nay
đã biết cuốc nương làm ngô. Con phải làm nương để giả nợ thay bố. Bố đừng
bán con cho nhà giàu”-> Sự thông minh và hiếu thảo của Mị không thắng được
hoàn cảnh và mưu chước thâm độc của cha con nhà thống lí. Mị bị bắt về làm dâu
nhà Thống lí . 3.Khi về làm dâu: a. Mị bị đày đoạ về thể xác lẫn tinh thần - Mị phải sống với kẻ mà mình không yêu,
bị tròng hai thứ dây trói: làm con nợ và làm con dâu. Con nợ bình thường còn hi
vọng thoát ra khi đã trả hết nợ nhưng làm con dâu thì Mị phải kéo lê thân phận
khốn khổ của mình đến tàn đời.Ban đầu, Mị rất buồn đau “Đêm nào Mị cũng khóc”. Mị định ăn lá ngón tự tử. Chính khát vọng được
sống một cuộc sống đúng nghĩa khiến Mị
không muốn chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, lầm than, tủi cực, bị đối xử bất
công như một con vật. Mị về lạy cha. Nhưng rồi thương cha, Mị đành nén nỗi đau
buồn riêng và quay trở lại nhà thống lí. Mị sống âm thầm lặng lẽ với cuộc sống
đầy tủi nhục."Mị tưởng mình cũng là
con trâu, mình cũng là con ngựa" - Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động.
Mị phải làm việc quần quật như một nô lệ
“Con trâu, con ngựa còn có lúc đêm
nó được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc
làm cả ngày cả đêm” + Mị
không nói, chỉ "lùi lũi như con rùa
nuôi trong xó cửa". Mị bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, nơi lui
vào lui ra chỉ là "một căn buồng kín
mít chỉ có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay" . Đã bao năm rồi,
Mị chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi tết… b. Mị sống mà như đã chết:
Tác giả cắt nghĩa: "Sống lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" Mị bị đày đọa đến mức tê liệt tinh thần.
Mị buông xuôi phó mặc cho hoàn cảnh. Mị
không còn ý thức được về thời gian, tuổi tác và cuộc sống. Mị sống như một cỗ
máy, một thói quen vô thức. Mị vô cảm, không tình yêu, không khát vọng, thậm
chí không còn biết đến khổ đau.Cô sống trong tuyệt vọng. Sống mà như chết. Điều
đó có sức ám ảnh đối với độc giả, gieo vào lòng người những xót thương. -> Bằng
NT miêu tả tâm lí tài tình, giọng văn ngậm ngùi, nhà văn diễn tả khá cụ thể nỗi
khổ của Mị và sự bóc lột dã man của giai cấp thống trị miền núi. II. Khi mùa xuân về Hồng Ngài: Sức
sống tiềm tàng trong Mị bỗng hồi sinh 1. Cảnh mùa xuân được nhà văn miêu tả tràn đầy sức sống. Không khí tưng bừng rộn rã của trai làng đánh
pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn. Màu sắc rực rỡ của những chiếc váy hoa đem
ra phơi xòe trên mỏm đá. Âm thanh réo rắt mời gọi bạn tình thiết tha bồi hồi lơ
lửng trong không gian. -> Ngôn từ giản dị, mộc mạc, đậm chất dân tộc.
Cuộc sống tự do, phóng khoáng và cảnh mùa xuân tươi vui nhộn nhịp đã tác động
vào tâm hồn Mị làm trỗi dậy trong cô lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc .
1. Cách giới thiệu nhân vật
Mị của tác giả rất độc đáo:
- Ngay từ những dòng đầu tiên, tác
giả tả Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa… “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ
ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nưóc dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi
mặt, mặt buồn rười rượi’
- Mị xuất hiện không phải ở phía
chân dung ngoại hình mà ở phía thân phận- một thân phận quá nghiệt ngã- một
con người bị xếp lẫn với những vật vô tri giác : tảng đá, tàu ngựa… trong
khung cảnh đông đúc tấp nập của gia đình nhà thống lí Pá tra
- NT đối cho thấy con dâu trong
một gia đình quyền thế, giàu có nhưng lúc nào cũng cúi mặt, buồn rười rượi.
-> Đây chính là thủ pháp tạo
tình huống trong lối kể chuyện truyền thống thôi thúc người đọc tìm hiểu bí
ẩn số phận nhân vật.
2.Trước khi về làm dâu:
- Mị xinh đẹp, hiếu thảo, siêng
năng cần cù, thổi sáo hay, có nhiều người thồi sáo đi theo Mị, trai đến đứng
nhẵn vách đầu buồng Mị. Mị đã yêu và được yêu.
- Mị có cảnh ngộ éo le: cha Mị
thiếu nợ nhà thống lí nên Mị phải làm con dâu để trừ nợ.
- Mị đã nghĩ cách cứu mình, Mị van
cha: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô. Con phải làm
nương để giả nợ thay bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”-> Sự thông minh
và hiếu thảo của Mị không thắng được hoàn cảnh và mưu chước thâm độc của cha
con nhà thống lí. Mị bị bắt về làm dâu nhà Thống lí .
3.Khi về làm dâu:
a. Mị bị đày đoạ về thể xác lẫn tinh thần
- Mị phải sống với kẻ mà mình không yêu, bị tròng hai thứ dây trói:
làm con nợ và làm con dâu. Con nợ bình thường còn hi vọng thoát ra khi đã trả
hết nợ nhưng làm con dâu thì Mị phải kéo lê thân phận khốn khổ của mình đến
tàn đời.Ban đầu, Mị rất buồn đau “Đêm
nào Mị cũng khóc”. Mị định ăn lá ngón tự tử. Chính khát vọng được sống
một cuộc sống đúng nghĩa khiến Mị
không muốn chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, lầm than, tủi cực, bị đối xử bất
công như một con vật. Mị về lạy cha. Nhưng rồi thương cha, Mị đành nén nỗi
đau buồn riêng và quay trở lại nhà thống lí. Mị sống âm thầm lặng lẽ với cuộc
sống đầy tủi nhục."Mị tưởng mình
cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa"
- Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động. Mị phải làm việc quần
quật như một nô lệ “Con trâu, con ngựa còn có lúc đêm nó được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả
ngày cả đêm”
+ Mị không nói, chỉ "lùi
lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mị bị cầm tù trong ngục thất
tinh thần, nơi lui vào lui ra chỉ là "một căn buồng kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn
tay" . Đã bao năm rồi, Mị chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi
tết…
b. Mị sống mà như đã chết:
Tác giả cắt nghĩa: "Sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ
rồi" Mị bị đày đọa đến mức tê liệt tinh thần. Mị buông xuôi phó mặc
cho hoàn cảnh. Mị không còn ý thức
được về thời gian, tuổi tác và cuộc sống. Mị sống như một cỗ máy, một thói
quen vô thức. Mị vô cảm, không tình yêu, không khát vọng, thậm chí không còn
biết đến khổ đau.Cô sống trong tuyệt vọng. Sống mà như chết. Điều đó có sức
ám ảnh đối với độc giả, gieo vào lòng người những xót thương.
-> Bằng NT miêu tả tâm lí tài tình, giọng
văn ngậm ngùi, nhà văn diễn tả khá cụ thể nỗi khổ của Mị và sự bóc lột dã man
của giai cấp thống trị miền núi.
II. Khi mùa
xuân về Hồng Ngài: Sức sống tiềm tàng trong Mị bỗng hồi sinh
1. Cảnh mùa xuân được nhà văn miêu tả tràn đầy sức sống. Không khí tưng bừng rộn rã của
trai làng đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn. Màu sắc rực rỡ của những
chiếc váy hoa đem ra phơi xòe trên mỏm đá. Âm thanh réo rắt mời gọi bạn tình
thiết tha bồi hồi lơ lửng trong không gian.
-> Ngôn từ giản dị, mộc mạc,
đậm chất dân tộc. Cuộc sống tự do, phóng khoáng và cảnh mùa xuân tươi vui
nhộn nhịp đã tác động vào tâm hồn Mị làm trỗi dậy trong cô lòng
ham sống và khát vọng hạnh phúc .
2. Trong đêm tình mùa xuân năm đó, tâm trạng
và hành động của Mị cũng có nhiều thay đổi
|
-
Mị uống rượu: Rượu
là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy.
"Mị lén lấy hũ rượu và uống ực từng bát một". Mị vừa như uống
cho hả giận vừa như uống hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng
sáo.
|
-
Mị nghe tiếng sáo gọi
bạn yêu lơ lửng bay: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bổi
hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi".-> Tô Hoài đã
miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo
là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, đã theo sát diễn biến tâm trạng
Mị, là ngọn gió thổi bùng lên đốn lửa tưởng đã nguội tắt. Thoạt tiên, tiếng
sáo còn "lấp ló", "lửng lơ" đầu núi, ngoài đường. Sau đó,
tiếng sáo đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của Mị và cuối cùng tiếng sáo trở
thành lời mời gọi tha thiết để rồi tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo.
- Mị nhớ lại quá khứ,
đó là dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại . Mị nhớ về hạnh phúc ngắn
ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình “Ngày
trước, Mị thổi sáo giỏi. thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Và niềm ham sống
trở lại "Mị thấy phơi phới trở
lại, trong lòng đột nhiên vui sướng” Mị
nhận thấy rằng : "Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi".
Tâm hồn Mị thực sự được hồi sinh.
- Thế nhưng, hiện thực đen tối đối
lập với quá khứ tươi đẹp. Mơ ước về hạnh phúc khó trở thành sự thực. Cuộc sống bị đày đoạ về thể xác lẫn tinh
thần vẫn hằng ngày vẫn đeo bám Mị. Bốn
bức tường chật chội, tăm tối của “căn buồng kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ,
một lỗ vuông bằng bàn tay” vẫn ám ảnh Mị. Nhũng trận đòn dã man của A Sử
vẫn đang chực chờ Mị.
- Mị lại muốn chết
"nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho
chết". Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình. Những giọt nước
mắt tưởng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài.
- Từ những sôi sục trong nội
tâm đã dẫn Mị tới hành động. Mị
"lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ thêm
vào đĩa dầu". Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là
bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình. Hành động
này đẩy tới hành động tiếp: Mị chuẩn
bị đi chơi. Mị "quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt
ở phía trong vách". Mị muốn thoát khỏi hiện thực đen tối của đời
mình. Nhưng thật nghiệt ngã. Đến lúc sự hồi sinh lên đến cao trào thì A Sử
về. A Sử tàn nhẫn không cho Mị đi
chơi. A Sử lấy dây thắt lưng và một thúng dây mây trói Mị vào góc nhà. Thế là
hết. Sự hồi sinh trong tâm hồn Mị đã bị
chặn đứt.
- Dù bị A Sử trói đứng vào góc
nhà, Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử,
quên hẳn mình đang bị trói, tiếng sáo vẫn dìu tâm hồn Mị "đi theo những cuộc chơi, những đám
chơi". A Sử chỉ có thể trói buộc thể xác của Mị chứ không thể trói
buộc tâm hồn Mị.
=> Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh
của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt và hiện thực phũ phàng
khiến cho sức sống ở Mị càng thêm dữ
dội. Qua đây, nhà văn muốn phát biểu một tư tưởng: sức sống của con người cho
dù bị giẫm đạp, bị trói chặt vẫn không thể chết mà luôn luôn âm ỉ, chỉ gặp
dịp là bùng lên.
|
III..Diễn biến tâm
trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ: Một trong những thành công của Tô Hoài là tác giả đã khắc họa tâm trạng
nhân vật Mị một cách sâu sắc và tài tình. Trong đoạn Mị cởi trói cho A Phủ, Tô
Hoài đã phát hiện và miêu tả thành công quá trình phát triển tâm lí phức tạp
nhưng lôgic của nhân vật. - A Phủ có hoàn cảnh thật đáng thương: mồ côi từ nhỏ, bị bán đổi lấy
thóc nhưng anh trốn đi, rồi làm thuê. Anh là người có sức lực, lao động giỏi,
tính tình phóng khoáng, yêu tự do, có tinh thần phản kháng cao. Thấy A Sử phá rối
cuộc chơi của đám thanh niên, anh đã đánh A Sử. Anh bị phạt vạ và làm nô lệ để
trừ nợ. Một lần, anh để mất một con bò, A Phủ bị trói đứng giống Mị ngày trước. + Mùa đông ở Hồng Ngài rất lạnh.
“Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay”.
Trước cảnh A Phủ bị trói, ban đầu
Mị hoàn toàn vô cảm: "Mị vẫn thản
nhiên thổi lửa huơ ta". Thậm
chí “A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng
thế thôi” bởi vì cảnh trói người ở nhà này đã diễn ra thường xuyên và đã
quá quen thuộc với Mị. Sống trong cái khổ lâu ngày, tâm hồn Mị đã câm lặng,
chai lì và vô cảm.. Bởi vì Mị sống mà như đã chết. Không có gì còn có ý nghĩa với
Mị lúc này. + Thế rồi, trong đêm
sau, lúc thức dậy thổi lửa , Mị bỗng nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hỏm má đã xám đen lại” của A Phủ. Trái tim đầy thương tích của Mị đã
hồi sinh. Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình cũng đã bị
trói đứng thế kia .Thương người đồng cảnh ngộ và thương mình, đồng thời Mị nhận
ra sự tàn ác dã man của nhà Thống lí “Chúng nó thật độc ác”. Mị tự nhủ: “Chỉ đêm mai là người kia chết. Người kia việc
gì mà phải chết”. Mị thấy được sự đáng thương tội nghiệp của người đồng cảnh.
Mị xót xa thương cảm. Tất cả đã khiến
cho hành động của Mị mang tính tất yếu. + Chứng kiến tình cảnh bi thảm của A Phủ, tình thương trong Mị lớn dần,
không thể nhìn A Phủ chết . Mị bắt đầu hành động. “Mị rón rén bước lại, Mị rút
con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây…Mị chỉ thì thào được một tiếng: Đi
ngay…rồi nghẹn lại”-> Những từ láy “rón rén, thì thào” cho thấy Mị hành
động trong nỗi sợ hãi tột cùng. Trong Mị
có sự đối lập giữa sợ hãi và tình thương vì bọn thống lí như cái bóng ma đã từ
lâu luôn ám ảnh Mị, gieo rắc xuống cuộc
đời Mị biết bao đau khổ. Nhưng tình thương yêu con người mạnh hơn nỗi sợ hãi đã
thúc đẩy Mị. Mị cởi trói cho A Phủ. + Khi A Phủ chạy đi, “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Cái “đứng lặng” này là một khoảnh khắc đắn đo, trăn trở của Mị. Nó có
tính chất vô cùng quan trọng. Đây là giây phút ngắn ngủi để Mị quyết định cho
cuộc đời mình. Thật bất ngờ, sau đó “Mị cũng vụt chạy ra”…Trước sự sống và cái chết, Mị đã vì sự sống
mà chạy theo A Phủ vì Mị ý thức rằng “ở
đây thì chết mất”. Hành động này là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng
của Mị, đúng dịp là nó bùng lên quyết liệt. Cứu A Phủ có nghĩa là Mị tự giải
phóng cho mình. Hành động này đã góp phần
dẫn Mị và A Phủ đến với cách mạng ở Phiềng Sa. => Khi sức sống tiềm tàng trong nhân vật được hồi sinh, nó sẽ là ngọn
lửa không thể dập tắt. Nó chuyển thành hành động phản kháng táo bạo ở những nạn
nhân của giai cấp thống trị, đứng lên chống lại cường quyền áp bức, chống lại sự
chà đạp để cứu lấy cuộc đời mình. *** SƠ KẾT : - Tô Hoài đã thành công ở NT tả cảnh đậm đà màu sắc dân tộc miền núi độc
đáo: tả cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt của con người lao động. - Tô Hoài là người rất am hiểu về con người và cuộc sống Tây Bắc kể cả
những phong tục tập quán. - Ông xây dựng nhân vật Mị mang tính cách người Mông: âm thầm mà mãnh liệt,
mộc mạc đơn sơ mà hết sức dữ dội. Đây là một điển hình cho người dân bị áp bức
nhưng có sức sống mãnh liệt, biết tự giải thoát khỏi những áp bức bất công - Ngôn ngữ truyện gần gũi, mộc mạc, tinh tế, đậm đà màu sắc miền núi - Nhiều chi tiết truyện hấp dẫn - Cách kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn - Cốt truyện giàu kịch tính, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. - Qua việc phân tích, ta thấy diễn biến tâm trạng Mị tưởng như đối lập
nhưng lại thống nhất, phù hợp với qui luật phát triển tâm lí của con người. -
Nhà văn đã dụng công miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật
Mị. Qua đó để thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, lớn lao.
IV. Tìm hiểu nhân vật A Phủ
- A Phủ được tác giả giới thiệu một cách đột ngột, tự nhiên. Lúc Mị
đang bị trói đứng ở cột nhà thì bỗng “Nghe
như họ khiêng theo một con lợn hoặc một người phải trói vừa vất huỵch xuống đất
cứ thở phè phè”
- A Phủ có hoàn cảnh thật đáng thương: Cha mẹ chết cả trong trận dịch
đậu mùa. A Phủ mồ côi từ nhỏ, bị bán đổi
lấy thóc nhưng anh trốn lên Hồng Ngài. Rồi anh làm thuê cho nhà người . Anh là người có sức
lực, lao động giỏi “ A Phủ khỏe mạnh,
chạy nhanh như con ngựa, con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói
“Đứa nào được A Phủ cũng bằng có con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà
giàu”.
- Anh là người có tính tình phóng khoáng, yêu tự do, có tinh thần phản
kháng cao. Thấy A Sử phá rối cuộc chơi của đám thanh niên, anh đã đánh A Sử.
Anh bị phạt vạ và làm nô lệ cho nhà thống lí Pá tra để trừ nợ. Anh bị đánh đập
tàn nhẫn “mặt A Phủ sưng lên, môi và
đuôi mắt chảy máu…” “A Phủ quì chịu đòn, chỉ im lặng như tảng đá…Cứ như thế
suốt chiều, suốt đêm”-> Anh là nạn nhân của giai cấp phong kiến miền
núi
- A Phủ bị xử phạt thật bất công và vô lí. Sau khi đánh đập anh tàn nhẫn,
thống lí Pá tra tuyên bố anh phải chịu phạt 100 bạc trắng. Chưa có tiền thì
“tao bắt mày ở làm con trâu, con ngưa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu
mày tao cũng bắt thế”-> Giai cấp thống trị miền núi thật độc ác và bất
công.
- A Phủ còn bị cha con thống
lí bóc lột sức laođộng và đối xử tàn bạo. Anh phải lao động cực khổ “ở lều hàng tháng ngòai nương” để chăn bò chăn ngựa. Một lần, anh để hổ ăn
thịt mất một con bò. Anh bị nhà Pá tra
trói đứng vào cột nhà suốt mấy ngày và
sắp chết.
|
- Khi được Mị cắt dây trói, dù đã kiệt sức nhưng anh vẫn vùng chạy và
mang theo cả Mị.-> Là người mạnh mẽ và gan góc, yêu cuộc sống tự do, A Phủ
đã đứng lên phản kháng lại sự áp bức đày đọa của bọn thực dân chúa đất để đi
tìm cuộc sống tự do.
=> A Phủ là một thanh niên lao động nghèo nhưng có bản chất tốt đẹp,
có tinh thần phản kháng mạnh mẽ trước cái xấu. Đó là điều kiện thuận lợi để
sau này A Phủ đến với Cách mạng.
V. Giá trị nội
dung tư tưởng tác phẩm
a) Giá trị hiện thực
- Bức tranh đsống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc là một thành
công của Tô Hoài ở đề tài miền núi.
- Bộ mặt của chế độ phong kiến miền núi: khắc nghiệt, tàn ác với những
cảnh tượng hãi hùng như địa ngục giữa trần gian.
- Phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp.
- Những trang viết chân thực về cuộc sống bi thảm của người dân miền
núi.
b) Giá trị nhân đạo:
- Cảm thông sâu sắc đối với người dân.
- Phê phán gay gắt bọn thống trị
- Ngợi ca những gì tốt đẹp ở con người.
- Trân trọng, đề cao những khát vọng chính đáng của con người.
- Chỉ ra con đường giải phóng người lao động có cuộc đời tăm tối và số
phận thê thảm.
VI. Tìm hiểu những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm
a) Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí: nhân vật sinh động,
có cá tính đậm nét (với Mị, tác giả ít miêu tả hành động, dùng thủ pháp lặp lại
có chủ ý một số nét chân dung gây ấn tượng sâu đậm, đặc biệt tác giả miêu tả
dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn,… với A Phủ, tác giả chủ
yếu khắc họa qua hành động, công việc, những đối thoại giản đơn)
b) Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với
những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân
gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,…
c) Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh
thấm đượm chất thơ.
d) Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.
|
e) Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi..
VỢ NHẶT Kim Lân I.TÌM HIỂU CHUNG: - Kim Lân là nhà văn xuất sắc
của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sở trường của ông là truyện ngắn. - Ông hiểu sâu sắc
cảnh ngộ và tâm lý của những người dân nghèo cho nên viết rất chân thật về cuộc
sống nghèo khổ thiếu thốn mà yêu đời, thật thà, chất phác của con người Việt
Nam. - Văn KL có ngôn ngữ mộc mạc, gần với đời thường nhưng
gợi hình, gợi cảm và giàu sức lôi cuốn. - “Vợ nhặt”
được viết sau Cách mạng tháng Tám, in
trong tập “Con chó xấu xí” - Tác phẩ tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp và phát
xít Nhật, thể hiện bản chất tốt đẹp và sức
sống kỳ diệu của người Việt Nam: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về
sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cùng hướng về
tương lai tươi sáng. - (Luận đề…) II.ĐỌC HIỂU VĂN BẢN A.TÌNH HUỐNG TRUYỆN: Độc đáo được bộc lộ ngay
trong nhan đề “Vợ nhặt”. Nhân vật Tràng nhà nghèo, xấu trai, là dân ngụ cư.
Trong hoàn cảnh đói kém anh lại lấy được vợ một cách dễ dàng, chỉ cần có mấy lời
tầm phào và vài bát bánh đúc. Đó là một tình huống éo le và thấm đẫm tình người
làm mọi người ngạc nhiên và ái ngại. Cái giá của một con người thật rẻ
rúng càng làm tăng giá trị hiện thực và
nhân đạo của tác phẩm. B.GIÁ TRỊ HIỆN THỰC (BỐI CẢNH ANH TRÀNG NHẶT ĐƯỢC
VỢ) _ Tác phẩm “Vợ Nhặt” đã phản ánh chân thật nạn đói khủng khiếp năm 1945 do thực dân Pháp và
phát xít Nhật gây ra, khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết. Thảm họa đó được
tác giả thu nhỏ lại qua hình ảnh xóm ngụ cư: _ Quang cảnh xóm ngụ cư +Con người dở sống
dở chết: “Người chết như
ngả rạ” à tác giả dùng hình ảnh so sánh để miêu tả cảnh người chết hàng loạt vì nạn
đói. “Người sống xanh xám như những bóng ma” à Kim Lân sử dụng hình ảnh so sánh để miêu tả cái đói
đã khiến con người tiều tụy, xơ xác. “Người
nằm ngổn ngang khắp các lều chợ”, “trẻ con ngồi ủ rủ... không buồn nhúc nhích” -> các từ láy “ngổn ngang”, “nhúc nhích” thể hiện cảnh người đói phải từ bỏ quê
hương đi tha hương cầu thực. Trẻ con vốn hiếu động nhưng vì đói không còn đủ sức
để hoạt động nữa. +Mùi vị ẩm thối:
“Mùi ẩm thối của
rác rưởi và mùi gây của xác người” cho thấy sự sống lụi tàn. +Âm thanh
thê lương: “Tiếng quạ trên cây gạo,
ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “tiếng khóc hờ tỉ tê”à bằng hình ảnh nhân hóa tiếng quạ…gào lên + từ láy “thê thiết”, “tỉ tê”miêu tả âm thanh ghê
rợn gợi sự chết chóc, tang thương + Bóng tối bao trùm: “Hai bên dãy phố úp súp, tối om,
không nhà nào có ánh đền, lửa” à xóm ngụ cư chìm trong bóng tối vì người dân không có
tiền mua dầu è Quang cảnh xóm ngụ cư ngày đói như một đám tang lớn
thê lương, ảm đạm. Trong tình cảnh đó, anh Tràng lại nhặt được vợ. C.GIÁ TRI NHÂN ĐẠO (HÌNH ẢNH NGƯỜI LAO ĐỘNG) I. Nhân vật
anh Tràng được miêu tả khá độc đáo: 1. Ngoại
hình anh Tràng xấu xí, thô kệch: “Cái
đầu trọc nhẵn”, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, “cái lưng to
lớn như lưng gấu” … à Bằng những
hình ảnh giàu sức gợi tả, tác giả miêu tả ngoại hình thiếu hài hòa của anh Tràng. 2. Anh Tràng ăn nói thiếu duyên, cộc lốc “vừa đi vừa nói lảm nhảm những điều hắn đang
nghĩ” , “vừa nói vừa cười hềnh hệch” “làm đếch gì có vợ”. 3. Anh
Tràng có hoàn cảnh bất hạnh + Nhà nghèo: dân ngụ cư, làm nghề kéo xe thóc
thuê cho liên đoàn. Anh sống cùng người mẹ già trong “ cái nhà vắng teo, rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại” + Anh có vợ
chỉ sau hai lần gặp gỡ ngắn ngủi và không qua cưới hỏi. Chị lại là người phụ nữ bất hạnh, tứ cố vô thân không
nơi nương tựa, đói cơm rách áo, ngay cả tên gọi cũng không có .
- Tràng
có vẻ đẹp tâm hồn rất đáng quí:
a. Anh Tràng là người có tấm lòng nhân hậu: _ Anh gặp
chị lần đầu do một câu hò vu vơ _ Anh gặp
chi lần thứ hai: dù không dư giả anh vẫn sẵn sàng mời chị ăn bốn bát bánh đúc
và một câu nói đùa “Có về với tớ thì
khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Khi chị nhất định theo anh, anh cũng lo sợ
cho tương lai nhưng không đành lòng từ chối. Hôm ấy, anh dẫn chị vào chợ “mua cho chị một cái thúng con đụng vài thứ lặt
vặt rồi đánh một bữa no nê” sau đó cùng nhau về nhà. => Anh Tràng là người giàu lòng yêu thương.
Dù nghèo túng, anh vẫn mở lòng cưu mang, đùm bọc người cùng cảnh ngộ. b. Anh Tràng là người khát khao hạnh phúc * Trên đường về nhà: _ Niềm
sung sướng thể hiện rõ trên nét mặt: “Tràng về với một người đàn bà. Mặt hán có vẻ
gì phớn phở khác thường, hắn tủm tỉm cười một mình, hai con mắt sáng lấp lánh”
à hàng loạt những từ
láy “phớn phở, tủm tỉm, lấp lánh” thể
hiện niềm vui sung sướng rạng ngời trên nét mặt anh Tràng. Ánh mắt của anh khác
hẳn khi chưa có vợ: “hai con mắt nhỏ tí
gà gà đắm vào bóng chiều” _ Cử chỉ ngượng ngùng “ hắn định nói với thị một câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói thế nào, hắn cứ lúng ta
lúng túng…đi bên người đàn bà”. _ Anh
Tràng cảm thấy hạnh phúc “có một
cái gì mới mẻ lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy. Nó ôm ấp,
mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng” → Nhà
văn miêu tả rất chân thật và tinh tế những cảm xúc rất nhân bản của người đàn
ông đang yêu. _ Tràng
quên đi thực tại túng quẫn “ Tràng
dường như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát
ghê gớm đang đe dọa… Trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người dàn bà
đi bên” → trong gian khổ đau thương thì hạnh phúc là điều đáng trân trọng
nhất. c. Anh Tràng biết trân trọng hạnh phúc _ Dù không
dư giả anh vẫn dành hai hào mua dầu để thắp sáng “vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một
tí chứ”. Hình ảnh ngọn đèn dầu không chỉ có ý nghĩa thắp sáng không gian, mà
nó còn là dấu hiệu báo trước cuộc đời Tràng sẽ thay đổi từ đây. * Về đến
nhà: _ Anh
Tràng rất coi trọng sự kiện mình có vợ, tuy chỉ là “vợ
nhặt”. Anh giới thiệu người “vợ nhặt” với mẹ thật dịu dàng và thân thiết “nhà tôi nó về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Anh
mời mẹ ngồi lên giường rồi mới thưa
chuyện. d. Anh Tràng có ý thức trách nhiệm với gia
đình * Từ
khi có vợ: - “Tràng bỗng chợt nhận ra xung quanh mình có
cái gì vừa thay đổi, mới mẻ, khác lạ”. Người “vợ nhặt” đã đem đến cho gia đình anh một
sinh khí mới . Thấy cảnh mẹ chồng, nàng dâu quét tước nhà cửa, anh rất xúc động
và mong muốn gia đình hạnh phúc _ Hạnh
phúc tình yêu đã làm Tràng thay đổi theo chiều hướng tốt:
- Trước
đây,
nhìn nhà mình anh chỉ thấy đó là “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên một mảnh
vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”
- Bây
giờ,
anh cảm thấy yêu thương gắn bó với
cái nhà lạ lùng. Tràng thấy mình “nên người”
.Chính tình cảm vợ chồng đã nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và ý thức trách
nhiệm với gia đình của mình “hắn thấy
hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” → sau đó Tràng cũng “xăm xăm ra sân dọn dẹp nhà cửa”.
Hành động, cử chỉ ấy đâu phải chỉ là một việc bình thường mà là một sự
chuyển biến lớn.
e. Tràng biết hy vọng ở tương lai. Trong tình cảnh túng đói
nhưng anh không tuyệt vọng. - Trong bữa
cơm ngày đói chỉ có “ một lùm rau chuối và một đĩa muối ăn với cháo” nhưng cả
nhà vẫn ăn ngon lành. - Bữa ăn
có thêm món cháo cám đắng chát, không
khí bên ngoài căng thẳng ảm đạm, dễ nảy sinh tuyệt vọng nhưng Tràng cùng gia
đình bàn tán chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho người đói. - Trong ý
nghĩ Tràng hiện lên hình ảnh “đám người
đói và lá cờ đỏ trên đê Sộp” với cảm giác hối hận vì lúc đó không hiểu
nên anh đã kéo xe đi lối khác à trong
hoàn cảnh khốn cùng dù cận kề cái chết nhưng anh không nghĩ đến cái chết mà vẫn
hướng tới sự sống và hy vọng vào tương lai - “Trong óc Tràng vẫn hiện lên đám người đói
và lá cờ đỏ phấp phới” là một kết thúc mở, mở ra lối ra đi tươi sáng
cho những mảnh đời tăm tối. Chúng ta tin, anh Tràng sẽ đến với Việt Minh, với
Cách mạng vì đó là con đường duy nhất, tất yếu, để anh có thể bảo vệ được hạnh
phúc mà mình vừa có được. => Tóm
lại: anh Tràng là người có số phận bất hạnh nhưng lại có một tâm hồn đẹp đẽ. ĐÁNH GIÁ v Nội dung: Qua
nhân vật anh Tràng, truyện ngắn “Vợ Nhặt” không chỉ tố
cáo tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xit Nhật đã đẩy người nông dân nước
ta vào tình cảnh thê thảm trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, mà còn thể hiện
được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu
của người Việt Nam: Ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống,
khao khát tổ ấm gia đình và yêu thương đùm bọc nhau ,cùng hướng về tương lai
tươi sáng. v
Nghệ thuật: - Tg đã xd thành công nhận vật điển hình. Anh
Tràng tiêu biểu cho người nông dân nghèo trước CM. - Tác giả đã xuất
sắc tạo ra tình huống nhặt vợ độc đáo, cảm động của anh Tràng, một người
nông dân nghèo khổ, xấu xí bỗng nhặt được vợ trong nạn đói (giá trị con người
trở nên rẻ rúng) - Tác giả miêu tả chân thật sinh động tâm lí
nhân vật. Tràng từ “ngờ ngợ” đến “phớn phở khác thường” và “thấy mình nên người” - Cách xây dựng truyện tự nhiên, đơn giản và chặt
chẽ, trần thuật bằng dòng hồi tưởng của Tràng khi dẫn vợ về nhà và trần thuật bằng
lời đối thoại giữa các nhân vật... - Ngôn ngữ truyện gần với khẩu ngữ, có sự chọn
lọc tinh tế... 2) Bà cụ Tứ : Bà cụ Tứ mang tâm hồn
cao đẹp, lối sống bình dị, giản đơn, đôn hậu, luôn khao khát một ngày mai tươi
đẹp mặc dù đang rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã của cuộc sống. a .Hoàn cảnh đáng thương: Đó là một người mẹ già nua, nghèo khổ, sống với người con trai trong
túp lều xiêu vẹo, với một cuộc sống thật mong manh trong nạn đói tại một xóm ngụ cư. “Ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng
tre lọng khọng đi vào” . Những từ
láy làm hiện lên hình ảnh một người mẹ già yếu với cuộc sống thật
khó khăn, vất vả. Cũng như bao
nhiêu người khác, Bà là nạn nhân của nạn đói khủng khiếp năm 1945 do Phát xít
Nhật và thực dân Pháp gây ra. b. Diễn biến tâm trạng của bà được
miêu tả rất tinh tế:
- Lúc đầu: người mẹ ngạc nhiên bất ngờ
vì thấy trong nhà có ngưới đàn bà lạ, một người đàn bà không biết từ
đâu đến.“Bà lão đứng sững lại, bà
lão càng ngạc nhiên hơn”. Bà đã quen với cuộc sống chỉ có hai mẹ con từ
trước đến giờ. Nay trong hoàn cảnh đói kém triền miên lại xuất hiện thêm
người lạ về cùng con trai làm bà thật khó xử.
- Khi hiểu ra người đàn bà lạ mà con trai mình đưa về sẽ là vợ của nó, tâm trạng của bà có nhiều cảm
xúc lẫn lộn đan xen.(tủi, mừng, lo lắng, động viên, vun vén hạnh phúc)
+Tủi thân, tủi phận: - Bà tự xót thương cho số phận mình: buồn vì nghèo nên không lo được đám cưới đàng
hoàng cho con. “Bà lão cúi đầu nín lặng,
hai dòng nước mắt trong kẽ mắt kèm nhèm”.Cưới hỏi là chuyện trọng đại cả đời
người. Vậy mà bà không lo được cho con vì cuộc sống quá nghiệt ngã, cái nghèo
đã khiến lòng bà quặn đau. “Chao ôi, người
ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi. Còn mình thì…”.
Dấu ba chấm ở dòng độc thoại nội tâm cho thấy
lòng người mẹ thật cao cả. Xót thương cho mình cũng là xót thương cho
con. Bà tự trách mình là người mẹ mà không lo được cho con. + Lo lắng cho con: Bà tự hỏi:
“Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống
qua được cơn đói khát này không ?”.Câu độc thoại nội tâm cho thấy bao lo lắng
trăn trở diễn ra trong lòng người mẹ nghèo. Lòng người mẹ luôn hướng về con,
luôn mong mỏi cho con có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bà không suy nghĩ đến
bản thân mình đang sống như thế nào. Người mẹ lúc nào cũng yêu thương, che chở,
đùm bọc cho con mình. Cái nghèo không chỉ
đe dọa đến bữa ăn của con bà mà còn đe dọa đến cả tính mạng con bà nữa. + Mừng, thương con trai và con dâu: - Sau chuỗi dài hờn tủi, lo lắng, Bà cụ Tứ như tự an ủi: “Người ta gặp bước khó khăn, người ta mới lấy
đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”.Suy nghĩ thật khiêm tốn, nhân từ,
bà chấp nhận sự thật nghèo khổ nhưng lại cảm thấy vui vì người đàn bà nọ đã chấp
nhận lấy con mình. Bà hạnh phúc khi con mình có vợ cho dù đang trong cảnh đói
kém. Người mẹ ấy thật nhân từ , độ lượng
biết bao! - Bà “nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới: Ừ thôi thì các con phải duyên, phải kiếp
với nhau, U cũng mừng lòng…”. Bà chấp nhận nàng dâu dù không qua cưới hỏi,
bà bỏ qua định kiến khắt khe của xã hội, dịu dàng và ân cần với nàng dâu cũng
như với con trai mình. Bà “mừng lòng” chứ không phải “bằng lòng” thể hiện niềm vui trong lòng bà thể hiện ra hết
với nàng dâu mới, người vợ sẽ chung sống cả đời với con trai bà. “Bà nhìn người đàn bà đầy lòng thương xót.
Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi”. + Động viên, gieo vào lòng con niềm tin ở cuộc sống: - Bà nói: “Vợ chồng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra thì ông trời cho khá.
Biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời… khi nào khá ta mua lấy đôi
gà… ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy chốc có ngay đàn gà cho mà xem”. Câu văn
thể hiện sự lạc quan, tin tưởng vào ngày mai tươi sáng. Bà nhẹ nhàng động viên,
dạy bảo các con cách làm ăn, cách ăn ở: phải biết đặt niềm tin vào tương lai mặc
dù phải chịu cảnh cơ cực, nghèo khó. - “Bà lão toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này”. Hiện
thực nghèo đói và cái chết luôn rình rập đã không còn hiện hữu trong căn nhà của
cụ Tứ nữa. Bà cụ Tứ đã quên đi cảnh túng quẫn khốn
khó đang đe dọa. Bà chỉ còn thấy vui và hạnh phúc. Đơn giản là con trai bà đã
nên gia thất – dẫu không có cưới hỏi cho
đàng hoàng. Bà đã có dâu. Người ta đã không chê gia cảnh nghèo nhà bà thì bà
không thể cứ ưu tư buồn bã. -> Tác giả miêu tả tinh tế tâm trạng phức tạp (vừa buồn lại vừa vui,
vừa mừng lại vừa lo, vừa tủi thân lại vừa sung sướng…) của một bà mẹ nghèo nhân
từ, độ lượng, bao dung hết lòng vì con. + Vui sướng và góp phần vun vén hạnh phúc cho con: - “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi
tỉnh khác ngày thường. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tưới nhà cửa” Nàng dâu mới như đã đem đến cho gia đình
một sinh khí mới. Hai tính từ “nhẹ nhõm,
tươi tỉnh” cho thấy bà thật sự rất hạnh phúc khi thấy con mình hạnh phúc. Bà “xăm xắn” dọn dẹp nhà cửa với hi vọng nhà cửa quang đãng, sạch sẽ
thì cuộc sống sẽ hấm khá hơn. Bà không
ngừng tin vào một ngày mai tốt đẹp. - Trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, Kim Lân miêu tả: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại… một
lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo” vẫn chưa no phải ăn thêm
cháo cám” à Nhưng bà cười vui
tíu tít để tạo không khí vui vẻ cho con.
Dường như với bà, tình cảm con người và hạnh phúc của con trai bà lúc
này mới là quan trọng. Bà quay mặt khóc
khi nghe tiếng trống thúc thuế ngay trong bữa ăn đầu tiên của đôi vợ chồng mới.
Hiện thực nghèo đói và áp bức bóc lột vẫn bủa vây lấy người mẹ nghèo tội nghiệp.
Nhưng bà không muốn để hai con trông thấy
nỗi đau của mình. Nỗi đau ấy chỉ mình bà nén chặt vào trong. => Tg đã thể hiện chân thực, sắc
sảo tâm trạng nhân vật: cố làm cho con vui, cố giấu nỗi đau luôn bị cái buồn ám
ảnh, xâm nhập. Qua đó ta thấy tất cả
lòng yêu thương con và sự hi sinh cao cả của người mẹ. 3) Người vợ nhặt a. Hoàn cảnh rất đáng thương, tội
nghiệp: - Chị không có tên gọi. Đề cập đến người phụ nữ này, nhà văn khi thì gọi “người đàn bà”, khi thì gọi là “thị”, có lúc lại gọi là “người con dâu”. - Không quê quán, đói cơm rách áo
“áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy xọp,
trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt” - Chị lấy Tràng chỉ nhờ một
câu nói đùa và bốn bát bánh đúc mà chị “cắm
đầu ăn liền một mạch” b. Diễn biến tâm trạng của chị được miêu tả sâu sắc: - Trước khi về với Tràng, người
phụ nữ mang tâm lý của người sống vất vưởng nên chua ngoa, đanh đá, ăn nói chỏng lỏn. Chị theo Tràng về làm vợ mà
không có một nghi thức nào vì cả hai cùng nghèo. Với chị, đó là cảnh “vợ theo”,
với anh, đó là người “vợ nhặt” - Trên đường về nhà Tràng, chị
cũng e lệ, thẹn thùng như bao người phụ nữ khác khi lấy chồng: “ngượng ngùng”, “kéo nghiêng vành nón”. Dù
trong bất kì hoàn cảnh nào, chị vẫn mang những nét rất duyên của người phụ nữ
Việt nam. - Về đến nhà “chị nén một tiếng thở dài”, “nhếch mép cười
nhạt nhẽo”, “ nét mặt bần thần khi ngồi
ở mép giường” “hai con mắt thoáng tối lại khi ăn bát cháo cám” -> Người
đàn bà thoáng lo lắng, xót xa, hạnh phúc xen lẫn buồn tủi khi thấy tình cảnh
nhà chồng. Nhà văn vô cùng tinh tế trong việc thể hiện diễn biến tâm trạng của
người phụ nữ bằng những chi tiết tưởng như chỉ thoáng qua - Từ khi có mái ấm gia đình,
tâm tính chị cũng thay đổi. Chị trở thành người phụ nữ “hiền hậu đúng mực”, chăm chút cho gia đình. Cuộc sống đã thổi vào
tâm hồn chị một luồng gió mới. - Chị còn là người am hiểu thời
cuộc khi kể cho mẹ và chồng nghe cảnh người đói ở Thái Nguyên phá kho thóc
Nhật. Nỗi khó khăn vẫn còn nhưng rõ ràng chị đã hướng về sự sống, hướng về
tương lai. => Tóm lại: Chị là nạn nhân của nạn đói năm ấy. Cuộc sống
đau thương khiến giá trị rẻ rúng. Khi sống trong tình thương yêu chị trở thành
người phụ nữ hiền thục, khéo vén, đảm đang được mẹ chồng và chồng thương mến. CHIẾC THUYỀN
NGOÀI XA
Nguyễn Minh Châu I.Vài nét về tác giả – Nguyễn
Minh Châu (1930 – 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. – Đẩu
năm 1950, ông gia nhập quân đội. Từ năm 1952 đến 1958, ông công tác và chiến
đấu tại sư đoàn 320. Năm 1962, ông vê’ cồng tác tại phòng Văn nghệ quân đội,
sau chuyển sang tạp chí Vãn nghệ quân đội. – Sau
1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh
Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám
phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ
thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn tìm
kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. – Ông
là một trong số những “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học
ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về
văn học nghệ thuật. *Tác
phẩm chính: Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977),
Chiếc thuyền ngoài xa (1987). II.Vài nét về tác phẩm 1. Xuất xứ văn bản Chiếc
thuyền ngoài xa là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp
cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái
nhìn hiện thực đa chiều đã giúp cho nhà văn nhận ra đời sống con người cả ở
những sự kiện bể nổi lẫn những khuất lấp trong bể sâu của nó, nhận ra cả những
quy luật tất yếu lẫn những ngẫu nhiên, may rủi đẩy bất trắc và khó lường hết
của đời sống. Ông luôn day dứt về việc con người phải chịu đựng, phải chấp nhận
những nghịch lí mà lẽ ra không đáng có trong một cuộc sống vốn đã tốt hơn. 2. Bố cục – Chia
thành hai đoạn: + Đoạn
1: Từ đầu đến “chiếc thuyền với gió đã biến mất”: Hai phát hiện của người nghệ
sĩ nhiếp ảnh. + Đoạn
2: Còn lại: Câu chuyện của người đàn bà hàng chài. III.Nội
dung cần nắm 1. Phát
hiện thứ nhất đầy thơ mộng của người nghệ sĩ – “Trước
mặt tôi là một bức tranh mực tàu… tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái
chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm
hồn”. + Đôi
mắt tinh tường “nhà nghề” của người nghệ sĩ đã phát hiện vẻ đẹp trời cho trên mặt
biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chưa từng bắt gặp. Người nghệ sĩ
cảm thấy hạnh phúc – đó là niềm hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự
cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Trước hình ảnh của chiếc thuyền ngoài xa giữa biển
trời mờ sương, anh đã cảm nhận cái đẹp toàn bích, hài hoà, lãng mạn của cuộc
đời, thấy tâm hổn mình như được thanh lọc, gột rửa. – Cảm
hứng triết lí về nghệ thuật: + Vẻ
đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”: Nghệ thuật
là sự giản dị, tự nhiên. + “Cái
đẹp là đạo đức”: Khoảnh khắc phát hiện ra một tác phẩm độc đáo là sự “khám phá
chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm
hồn”. —» Cái
đẹp “thanh lọc” tâm hồn, để tâm hồn con người cao khiết, không gợn đục, thánh
thiện. *Sự
phát hiện ra cái đẹp trong nghệ thuật đôi khi là sự kết hợp của rung động và
duyên may. Nhìn ở góc độ này, nó là thứ dẫu sao còn tương đối dễ phát hiện, dễ
thấy. 2. Phát hiện thứ hai đẩy nghịch lí của
người nghệ sĩ nhiếp ảnh – Điểm
nhìn: Chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng —» gần,
trực diện, rõ nét. – Hình
ảnh: + Người
đàn bà: Cao lớn, với những đường nét thô kệch, mặt rỗ, vẻ mặt mệt mỏi (…) tái
ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới. + Người
đàn ông: Tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, hàng lông mày
cháy nắng, hai con mắt đẵy vẻ độc dữ. —» Hình
ảnh xấu xí, xù xì, trần trụi, thô mộc, gai góc của đời sống, đối lập với vẻ
lãng mạn của khung cảnh thiên nhiên trong bức ảnh nghệ thuật. – Hành động: + Người
chồng: Hùng hổ rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quật tới tấp vào
lưng người đàn bà —» hành động hung bạo, dã man, lạnh lùng như một con thú dữ. + Người
vợ: Cam chịu đẩy nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng
không tìm cách chạy trốn. + Đứa
con: Giằng thắt lưng, quật lại bố để bảo vệ mẹ.
—> Giống như một vở kịch câm, không lời chú giải, đầy nghịch lí khiến câu
hỏi về hiện thực trong Phùng như muốn vỡ ra. *Phát
hiện về một hiện thực gồ ghề, gai góc, ngang trái, phức tạp, không dễ lí giải,
khác xa, thậm chí đối lập với vẻ đẹp bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh. 3. Mối quan hệ giữa hai phát hiện (mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa nhà văn và cuộc đời) – Phát
hiện nghệ thuật, ở một chừng mực nhất định dễ thấy hơn phát hiện về hiện thực. – Đời
sống con người vốn bề bộn, phức tạp. Hiện thực không giản đơn, toàn màu hồng mà
đa chiều, phân tranh nhiều mảng sáng tối không dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng ở
ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực mờ ảo – chiếc thuyền thấp thoáng
biển khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu sắc, suy tư đa chiều hơn
nữa. IV. Về các nhân vật trong truyện a. Người đàn bà hàng chài và câu chuyện đời
tự kể – Hình
dáng: Thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của tạo hoá, mang những đặc trưng của một
người đàn bà miền biển lam lũ. – Thái
độ, hành động khi được mời tới toà án: + Sợ
sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi. + Rón
rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà Đẩu mời. + Van
xin chính quyển đừng bắt chị bỏ người chổng vũ phu: “Quý toà bắt tội con cũng
được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. —» Kiên
quyết không bỏ chồng bằng mọi giá. + Hành
động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và Phùng —» Một
sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận
đánh thừa sống thiếu chết. (Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng). —» Câu
hỏi đặt ra: Điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống
địa ngục kinh hoàng với người chồng hung bạo? – Câu
chuyện cuộc đời: + Cách
xưng hô: Con, quý toà – chị, các chú —»thay đổi tương quan: bị động, yếu thế,
thiếu tự tin, bề dưới nói với bê’ trên —» chủ động, bình đẳng, con người có
hiểu biết nói với người đang lắng nghe. + Nội
dung câu chuyện:
• Xấu, buộc phải lấy anh làng chài.
• Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyên lại chật.
• Bất kể lúc nào khổ quá, chổng lại lôi ra đánh, ngay trên thuyền, sau này xin
mãi mới được lên bờ chịu đòn.
• Lí lẽ để “đừng bắt tôi bỏ nó”: Vì cần có một người đàn ông chèo lái và ở trên
thuyền cũng có lúc vợ chổng con cái sống hòa thuận, vui vẻ.
• Giá đẻ ít đi -> biện minh cho hành động hung hăng của chổng bằng cách chỉ
ra lỗi thuộc về sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.
• Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất vả
của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông (…) những khi biển
động.
—» Vì cần một trụ cột.
• Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình.
—» Vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ.
• Cũng có lúc vợ chổng con cái sống hòa thuận, vui yẻ.
—» Cuộc sống với người đàn ông “dã man” kia không phải không có những khoảnh
khắc đầm ấm hạnh phúc. * Qua
nội dung câu chuyện, cách kể và ngôn ngữ kể chuyện, người đọc thấy được: – Số
phận người đàn bà: Đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc sống
bị đày đoạ, đánh đập. – Tính
cách: Yêu thương con, vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ sống giản đơn của một người
đàn bà hàng chài. – Sự lí
giải, làm sáng tỏ hiện thực đời sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể
hiểu được”. b. Về người đàn ông vũ phu Cuộc
sống đói nghèo đã biến “anh con trai” cục tính nhưng hiển lành xưa kia thành
một người chồng vũ phu. Lão đàn ông có “mái tóc tổ quạ”, “chân chữ bát”, hai
con mắt đầy vẻ độc dữ vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm
gây nên đau khổ cho người thân của mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần
thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy? c. Chị em thằng Phác Bị đẩy
vào tình thế khó xử khi ở trong hoàn cảnh ấy. Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt
mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, ngăn em làm
việc trái luân thường đạo lí. Cô bé là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng
thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết
chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Thằng Phác thương mẹ theo kiểu
một cậu bé còn nhỏ, theo cái cách một đứa bé trai vùng biển. Nó “lặng đưa mấy
ngón tay sờ lên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa
đầy trong những nốt rỗ chẵng chịt”, “nó tuyên bố với các bác ở xưởng đóng
thuyền rằng nó còn có mặt ở biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Hình ảnh thằng
Phác khiến người đọc cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào. d. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Vốn là
người lính thường vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn
sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh xúc động ngỡ ngàng trước vẻ
đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh
sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra cảnh đẹp huyền ảo trên biển. Hơn bao giờ
hết Phùng hiểu rõ: trước khi là một nghệ sĩ rung động trước cái đẹp phải là một
người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường, biết hành động để có một
cuộc sống xứng đáng với con người. 5. Cách xây dựng cốt truyện độc đáo Trong
tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo.
Trước đó, anh nhìn đời bằng con mắt người nghệ sĩ, rung động, say mê trước vẻ
đẹp huyền ảo, thơ mộng của thuyền biển. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những
cảm xúc lãng mạn, Phùng phát hiện ra hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chổng bước
ra từ con thuỵển “thơ mộng”. Tình
huống đó được lặp lại lần nữa: Bên cạnh người đàn bà nhẫn nhục, chịu đựng “đòn
chồng”, Phùng còn được chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trước sự hung
bạo của người cha đối với mẹ. Từ đó, trong người nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách
nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu
thêm về người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội Đẩu và hiểu
thêm chính mình. Nguyễn
Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ
khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong
tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý
nghĩa khám phá, phát hiện đời sống. 6. Ngôn
ngữ nghệ thuật của tác phẩm – Ngôn
ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hoá thân của tác giả. Chọn
người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường
khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chần thật, giàu sức
thuyết phục. – Ngôn
ngữ nhân vật: Được cá thể hóa, phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người.
(Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quý toà”;
chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình; dịu dàng, xót xa khi nói
với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, cục cằn,..
SỐ PHẬN
CON NGƯỜI Sô – Lô – Khốp I.Một vài nét về tác giả A.
Sô-lô-khốp (1905-1984) là nhà văn Xô viết lỗi lạc, được vinh dự nhận giải thưởng
Nô-ben về Văn học năm 1965 (ông còn được nhận giải thưởng Lê-nin, Giải thưởng
văn học quốc gia. - Cuộc đời và sự nghiệp của Sô-lô-khốp gắn bó mật
thiết với sự ra đời của một chế độ-chế độ xã hội chủ nghĩa tại vùng đất sông
Đông trù phú, đậm đà bản sắc văn hoá người dân Cô-dắc. - Là nhà văn xuất thân từ nông dân lao động,
Sô-lô-khốp am hiểu và đồng cảm sâu sắc với những con người trên mảnh đất quê
hương. Đặc điểm nổi bật tròn chủ nghĩa nhân đạo của Sô-lô-khốp là việc quan
tâm, trăn trở về số phận của đất nước, của dân tộc, nhân dân cũng như về số
phận cá nhân con người. - Phong cách nghệ thuật của Sô-lô-khốp: nét nổi bật là
viết đúng sự thật. Ông không né tránh những sự thật dù khắc nghiệt trong khi
phản ánh những bức tranh thời đại rộng lớn, những cảnh đời, những chân dung số
phận đau thương. Trong sáng tác của ông, chất bi và chất hùng, chất sử thi và
chất tâm lí luôn được kết hợp nhuần nhuyễn. - Những tác phẩm tiêu biểu: + Sông Đông êm đềm: 1927. + Đất vở hoang I: 1932. + Đất vỡ hoang II: 1959. + Số phận con người: 1956. II.Một vài nét về tác phẩm a. Hoàn cảnh sáng tác – Hoàn cảnh sáng tác: tác phẩm được viết từ khi chiến
tranh thế giới kết thúc năm 1957, tinh thần dân chủ tràn ngập nước Nga. Đồng
thời khi đó văn học nghệ thuật đi sâu vào thâm nhập tìm hiểu đời sống số phận
con người.
– Thể loại: tiểu thuyết anh hùng ca. b. Tóm tắt. Truyện Số phận con người ra
đời năm 1956 là một trong những sáng tác xuất sắc của M. Sô-lô-khốp những năm
sau chiến tranh. Truyện khai thác đề tài số phận con người sau chiến tranh qua
cuộc đời nhân vật Xô-cô-lốp. Truyện gồm hai phần: mở đầu, kết thúc và ba
chương. Xô-cô-lốp là một cậu bé mồ côi, chăm chỉ. Lớn lên lấy vợ và có một gia
đình hạnh phúc với hai con gái và một cậu con trai - một học sinh giỏi toán. Chiến tranh
bùng nổ anh tham gia Hồng quân rồi bị phát xít bắt giam. Vợ và hai con gái đã
bị bom phát xít chôn vùi cùng với ngôi nhà. Thoát khỏi nhà tù phát xít, anh đã
vô cùng hạnh phúc khi nhận được tin cậu con trai đang là đại uý pháo binh, một
sĩ quan dũng cảm. Sắp tới ngày chiến thắng hai cha con hẹn gặp nhau. Anh hồi
hộp và chờ đợi giờ phút ấy. Và anh đã được gọi đến để nhìn mặt con lần cuối.
Con trai anh đã hy sinh vào đúng ngày chiến thắng. Anh vô cùng đau đớn khi phải
"chôn trên đất người niềm vui sướng, niềm hy vọng cuối cùng" của
mình. Trở về cuộc sống
thường nhật với một nỗi đau và sự mất mát quá lớn Xô-cô-lôp lang thang kiếm
sống khắp nơi. Anh kiếm được chân lái xe cho đội vận tải lương thực. Và anh đã
gặp cậu bé Va-ni-a bị lạc mất bố mẹ trong chiến tranh. Thương cậu bé cùng cảnh,
anh nhận cậu bé làm con nuôi, còn cậu bé lại tưởng anh là cha đẻ của nó. Hai
người đã dựa vào nhau mà sống. Từ đó anh thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn cho dù
sự có mặt của Va-ni-a chưa đủ để làm vơi nỗi đau trong anh. Rồi một điều không
may xảy ra, một con bò đâm vào xe Xô-cô-lôp làm anh bị tước mất bằng lái. Hai
cha con tạm biệt vợ chồng người bạn rồi dắt nhau đi tìm một vùng đất mới. Đoạn
trích thuộc phần cuối tác phẩm, bắt đầu từ khi Xô-cô-lôp trở về từ đám tang con
trai với nỗi đau vô tận, rồi anh gặp và nhận Va-ni-a làm con cho đến kết thúc
tác phẩm. Tác phẩm là câu
chuyện cảm động về số phận con người trong và sau chiến tranh. Nhà văn đã thể
hiện sự đồng cảm sâu sắc của mình đối với số phận con người, qua đó ngợi ca
tính cách Nga nhân hậu, kiên cường và bất khuất.
- Nhân vật trung tâm: Xô-cô-lốp và Va-ni-a
- Nhân vật chính của truyện là An- đrây Xô cô lốp -
từng là một người lính Xô -viết . Anh đã kể cho tác giả nghe về cuộc đời đau
khổ của mình ... c. Giá trị. - Tác phẩm là cột mốc quan trọng mở ra chân trời mới
cho văn học Xô Viết. - Truyện có một dung lượng tư tưởng lớn khiến cho có
người liệt nó vào loại tiểu anh hùng ca. d. Vị trí đoạn trích. Thuộc phần cuối truyện kể về quãng đời sau chiến tranh
của sô-cô-lốp.
III.Nội dung cần nắm 1.
Chiến tranh và thân phận con người. a) Hình tượng Xô-cô-lốp. * Trong chiến tranh. + Là một chiến sĩ Hồng Quân kiên cường, khí phách. + Qua lời nói của tên chỉ huy Đức khi anh bị bắt làm
tù binh. Mày là một thằng lính Nga chân chính. Tao cũng là lính
tao trọng những địch thủ có khí tiết. Tao sẽ không bắn mày. + Chiến đấu bị thương hai lần. + Bị đày đọa trong trại tập trung của phát xít Đức vẫn
giữ khí phách anh hùng của người Lính Xô Viết. + Vợ và con gái bị bom giết hại từ 1942. + Con trai A-na-tô-li một học sinh giỏi toán, đại úy
pháo binh, hy sinh trong ngày chiến thắng tại Béc lin. => Chịu nhiều đau thương cay đắng đối diện với nỗi
đau cùng cực * Sau chiến tranh(Trước khi gặp bé Va-ni-a) - Hoàn cảnh: “ Tôi đã chôn trên đất người........ cuối cùng của
tôi” chịu trăm ngàn cay đắng. + Không vợ con, không nhà cửa không hy vọng không trở
về quê hương. + Anh sống nhờ bạn để tìm kế sinh nhai nhưng không gặp
may, bị mất việc, anh mượn rượu để giải sầu. => Chiến tranh đã tước đoạt những gì quý giá
nhất:quê hương,gia đình,niềm hạnh phúc,niềm hi vọng. - Tâm trạng: + Vỡ tung, mất hồn, Rơi vào nỗi đau cùng cực Âm thầm
chịu đựng. + Sống như người lao động bình thường. + Tìm đến rượu để giảm và quên hết nỗi đau Bế tắc. + Những giọt nước mắt: nỗi đau không thể diễn tả bằng
lời + Dù gặp nhiều đau khổ nhưng anh không bao giờ than
vãn=> anh là người kiên cường (tính cách Nga). b. Bé Va-ni-a –Cậu bé xuất hiện trong một bộ dạng vô cùng thảm
thương.
–Một cậu nhóc bé tí mà quần áo rách bươm xơ mướp suốt ngày lang thang ai cho gì
thì ăn cái nấy. - Đôi mắt "như ngôi sao sáng ngời". - Sự ngây thơ, tội nghiệp, không nơi nương tựa- nạn
nhận tội nghiệp của thời chiến. -> Cả hai người một lớn một bé đều rơi vào hoàn
cảnh giống nhau đó là mất hết người thân chỉ còn một mình sống trên cõi đời
này. Hậu quả của chiến tranh để lại vô cùng lớn không chỉ là nỗi đau về da thịt
mà còn là nỗi đau về tinh thần. Hai người đến bên nhau đùm bọc cưu mang nhau cùng vượt
lên số phận. * Nhận Va-ni-a làm con nuôi: - "không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng
lẻ được, mình phải nhận nó là con" => Hai con ngời không nơi nương tựa
phải dựa vào nhau trong cuộc sống. Đây là quyết định bột phát, xuất phát từ
lòng thương người không tính toán. - Từ sau khi nhận bé Va-ni-a làm con nuôi: + Tâm hồn anh nhẹ nhõm, bừng sáng lên. + Anh chăm sóc bé chu đáo, thương nó như cha con: Đêm
đêm khi nhìn thấy nó ngủ anh như quên hết nỗi cô đơn quên sự buồn phiền và có
động lực làm việc để cho nó có một cuộc sống tốt. Anh vơi bớt nỗi cô đơn, tìm thấy hạnh phúc trái
tim "chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn..." + Bé Va-ni-a cũng rất thương anh và cần đến anh :Vania
thì sung sướng, yêu thương Xô cô Lốp hôn lên mặt mũi và ôm mãi anh không rời. Hai con người đau khổ đã nương tựa, sưởi ấm cho
nhau. Tình cảm của Xô-cô-lốp đối với bé Va-ni-a là niềm vui,
niềm hạnh phúc của một trái tim đang phục hồi; tình cảm của Va-ni-a đối với
Xô-cô-lốp là tình cảm gắn bó quyến luyến của một đứa bé đã tìm thấy nơi nương
tựa.Có thể nói với tình yêu thương con người, với tình cảm đồng cảnh ngộ họ đã
vượt qua khó khăn vượt qua nỗi đau sau chiến tranh để sưởi ấm cho nhau bằng
tình yêu thương thân ái. * Việc nhận bé Va-ni-a làm con nuôi làm Xô-cô-lốp vơi bớt nỗi cô đơn nhưng
trái tim anh vẫn không trở lại được như xưa: - Đêm nào anh cũng mơ thấy người thân quá cố. - Ban đêm thức giấc nước mắt ước đẫm cả gối. - Nỗi buồn đau khiến anh không ở yên một chỗ được. => Những đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra
không gì bù đắp nổi, thời gian cũng không xoa dịu được vết thương lòng của anh. 2. Suy nghĩ của Sô-lô-khốp về số phận con người: - Đoạn kết ca ngợi con người Nga, tính cách Nga nghị
lực kiên cường trong cuộc đời đầy khó khăn sau chiến tranh. Qua đó, tác giả
nhắc nhở mọi người quan tâm đến con người, đặc biệt là người lính trở về sau
chiến tranh. - Ca ngợi trái tim nhân hậu của Xô-cô-lốp rực sáng
trong thế giới hậu chiến đầy hận thù và đau khổ. - Tính cách Nga hoà hợp trong hai phẩm chất : cứng rắn
và mềm dịu của tâm hồn, ý chí kiên cường và lòng nhân ái. IV. Tổng
kết. Đoạn trích đã tố cáo hậu quả của chiến tranh, tố cáo
tội ác của những kẻ gây ra chiến tranh. Những người vốn dĩ được sống hạnh phúc
thì vì chiến tranh mà không còn có ai ở bên cạnh. Họ gặp nhau dùng con tim của
mình để sưởi ấm cho nhau. Có thể nói đây là một tác phẩm thành công của nhà văn
Xô Lô Khốp.
NGHỊ LUẬN VÈ MỘT TÁC
PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI I.Kiến thức cơ bản 1. Cách
làm nghị luận một tác phẩm văn học – Đọc tìm hiểu, khám phá
nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. – Đánh
giá giá trị của tác phẩm. 2. Cách
làm nghị luận một khía cạnh một tác phẩm văn học – Cần
đọc kĩ và nhận thức được khía cạnh mà đề yêu cầu. – Tìm
và phân tích những chi tiết phù hợp vói khía cạnh mà đề yêu cầu. 3. Cách
làm bài văn nghị luận vê một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi – Có
đề nêu yêu cầu cụ thể, bài làm cần tập trung đáp ứng các yêu cầu đó. – Có
đề học sinh tự chọn nội dung viết, cần phải khảo sát và nhận xét toàn truyện.
Sau đó chọn ra hai, ba điểm nổi bật nhất, sắp xếp theo thứ tự hợp lí để trình bày.
Các phần khác nói lướt qua. Như thế bài làm sẽ nổi bật phần trọng tâm, không
lan man. II.Các bước làm bài văn nghị
luận về một tác phẩm một đoạn trích văn xuôi
1.Bước 1:Phân tích đề - xác định yêu cầu của
đề + Xác định dạng đề + Yêu cầu nội dung ( đối tượng ) + Yêu cầu về phương pháp + Yêu cầu phạm vi tư liệu dẫn chứng 2.Bước 2:Lập dàn ý – tìm ý – sắp xếp ý: theo
bố cục 3 phần -Mở
bài: + Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
đoạn trích văn xuôi cần nghị luận + Giới thiệu vấn đề cần nghị luận -Thân
bài: Phân
tích những giá trị nội dung nghệ thuật tác phẩm, đoạn trích để làm rõ vấn đề
cần nghị luận hoặc một số khía cạnh đặc sắc nhất của đoạn trích. -Kết
bài: Đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích 3.Bước 3:Viết bài + Dựa theo
dàn bài đã xây dựng viết thành bài văn hoàn chỉnh +Chú ý viết
đoạn văn phải làm nổi bật luận điểm và chứng minh bằng những luận cứ rõ ràng.
Các đoạn phải có liên kết chuyển tiếp nhau. 4.Bước 4: Kiểm tra, chỉnh sửa III.Luyện tập Đề 1: Phân
tích truyện ngắn Tinh thần thể dục của Nguyễn Công Hoan. a. Gợi ý tìm hiểu đề - Đặc sắc của kết cấu truyện: Truyện gồm
những cảnh khác nhau tưởng như rời rạc (cảnh van xin, đút lót, thuê người đi
thay, bị áp giải đi xem đá bóng), nhưng thật ra đều tập trung biểu hiện chủ đề:
bọn quan lại cầm quyền cưỡng bức dân chúng để thực hiện một ý đồ bịp bợm đen
tối. - Mâu thuẫn và tính chất trào phúng của truyện: + Việc xem đá bóng vốn mang tính
chất giải trí bỗng thành một tai hoạ giáng xuống người dân. + Sự tận tụy, siêng năng thực thi lệnh
trên của lí trưởng đã gặp phải mọi cách đối phó của người dân khốn khổ. - Đặc điểm của ngôn ngữ truyện: + Ngôn ngữ người kể chuyện: rất ít
lời, mỗi cảnh có khoảng 2 dòng, như muốn để người đọc thiểu lấy ý nghĩa. + Ngôn ngữ các nhân vật: lời đối thoại
rất tự nhiên, sinh động, ... thể hiện đúng thân phận và trình độ của họ. Ngôn
ngữ của lí trưởng không mang kiểu cách hành chính nào cả ... . Qua ngôn ngữ các
nhân vật, người đọc có thể hình dung đó là một xã hội hỗn độn. - Giá trị hiện thực và ý nghĩa phê phán của
truyện: Tác giả dùng bút pháp trào phúng để châm biếm trò lừa bịp của chính
quyền. Nội dung truyện không phải hoàn toàn bịa đặt. Để tách người dân khỏi ảnh
hưởng của các phong trào yêu nước, thực dân Pháp đã bày ra các trò thể dục thể
thao (đua xe đạp, thi bơi lội, đấu bóng đá) để đánh lạc hướng. Do đó truyện này
có ý nghĩa hiện thực, có giá trị châm biếm sâu sắc. b. Gợi ý xây dựng dàn bài Mở bài: Giới
thiệu ngắn gọn về truyện ngắn Tinh thần thể dục của nhà văn
Nguyễn Công Hoan. Thân bài: Nghệ
thuật trào phúng trong truyện ngắn Tinh thần thể dục: kết cấu
truyện độc đáo, mâu thuẫn trong truyện nhiều dạng vẻ và ý nghĩa của cái cười
trong truyện ngắn Tinh thần thể dục. Kết bài: Qua
tác phẩm, cần thấy được mối quan hệ giữa văn học và thời sự; văn học và sự thức
tỉnh xã hội.
SỞ GD & ĐT TP ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG THPT QUANG TRUNG
ĐỀ 4
|