QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH SÁCH GIÁO KHOA ĐIỆN TỬ CỦA TRƯỜNG THPT QUANG TRUNG
TÊN CÔNG
TRÌNH:
Bài giảng điện tử e-Learning được dạy 10 năm tại
trường THPT Quang Trung đã hoàn thiện cuộc cách mạng công nghiệp 3.0, làm đòn
bẩy để tiến công vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
NHÓM VIẾT CÔNG
TRÌNH:
1.
Phạm Sỹ Liêm, Hiệu trưởng
trường THPT Quang Trung;
2.
Lê Thị Mỹ Nguyên, Phó Hiệu
trưởng trường THPT Quang Trung.
Loại hình: Quản lý giáo dục.
PHẦN THỨ NHẤT:
HIỆN ĐẠI HÓA NỀN GIÁO DỤC BẰNG
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 3.0
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Từ chủ trương đưa công nghệ thông tin vào trường học của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, trường Quang Trung có chủ trường đưa công nghệ thông tin
vào từng lớp học:
Từ những năm từ 2000 đến 2010, Bộ GD&ĐT có nhiều văn
bản thúc đẩy các trường trung học phổ thông trên cả nước tích cực đưa CNTT vào
giảng dạy tại các trường. Điều này có nghĩa là các trường học công lập có được
kinh phí để mua các trang thiết bị về CNTT như máy vi tinh, máy chiếu các dụng
cụ hổ trợ để trang bị mỗi trường ít nhất có một phòng bộ môn, qua đó học sinh
có cơ hội đến học tại phòng bộ môn. Tuy nhiên do số lớp trong trường khá đông
nên mỗi năm mỗi học sinh chỉ có cơ hội được học bằng CNTT số lần rất ít. Còn
các trường ngoài công lập phải tự bỏ tiền ra mua.
Trong giai đoạn này, Bộ đã tổ chức nhiều cuộc hội nghị để
tập huấn cho các cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên biết tin học các kỹ năng
xây dựng phòng bộ môn, phương pháp dạy học bằng CNTT, phương pháp soạn giáo án
để họ về trường xây dựng phòng bộ môn, thiết kê các bài giảng trình chiếu
powerpoint để tập huấn lại cho giáo viên toàn trường biết dạy học bằng CNTT.
Tuy nhiên, có một trở ngại là còn nhiều cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên
chưa biết về tin học, nhất là những người lớn tuổi, điều này ảnh hưởng đến nhiều
học sinh không được thụ hưởng các bài học bằng GNTT. Một học sinh khi được học
một tiết học về CNTT, các em sẽ thích thú, dễ tiếp thu bài học với mẫu chữ
màu và lớn, nhiều hình ảnh sinh động, kể cả các video, các thí nghiệm ảo,…Nhưng
điều quan trọng nhất là do các em được tiếp cận sớm CNTT nên khi các em ra đời
hay học lên đại học cao đẳng dễ hòa đồng với các môi trường xã hội, làm tiền đề
để tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 rất quan trọng hiện nay. Đặc biệt
trong thời gian này, để nâng cao chất lượng việc dạy học ở các phòng bộ môn hầu
sớm tiếp cận với các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, Bộ đã cử Ông Cục trưởng
Cục CNTT Quách Tuấn Ngọc về các Sở GD&TT để tập huấn cho các bộ cốt cán kì
một công cụ trình chiếu nâng cao lên bằng powerpoint là phần mềm về Bài giảng
điện tử e-Learning của Hàn Quốc. Từ đó đến nay, Bộ có tổ
chức các cuộc thi về thiết kế bài giảng điện tử e-Learning, nhưng tỷ lệ giáo
viên dự thi so với số lượng giáo viên cả nước là rất bé, từ đó học sinh
chưa có cơ hội học được các bài giảng e-Learning, nên chủ trương CNTT
của Bộ chưa đáp ứng được chủ trương hiện đại nền giáo dục của Đảng và Nhà nước.
2. Đến khát vọng của trường THPT Quang Trung muốn đưa CNTT
không chỉ vào trường mà đưa CNTT vào từng lớp học.
Trước năm 2005,
trường Quang Trung cũng như các trường khác trong thành phố Đà Nẵng, giáo viên
lên lớp dạy cho học sinh bằng phương pháp truyền thống với viên phấn và bảng
đen, kèm theo các đồ dùng dạy học do từ năm 2000 đến năm 2005, trường trong đã
tổ chức cho giáo viên và học sinh nhiều đợt làm đồ dùng dạy học có chấm chọn
các đồ dùng dạy học nào tốt để khen thưởng và lưu lại ở phòng đồ dùng dạy học.
Tuy nhiên,
phong trào này không đáp ứng nhanh và tích cực cho nhiều tiết dạy mà chỉ phục vụ
cho một số tiết dạy, chỉ cho một số bộ phận môn học. Từ suy nghỉ đó, hiệu trưởng
nhà trường muốn tìm phương pháp khác để phục vụ cho nhiêu môn học và cho nhiều
học sinh hơn: Đó là sử dụng CNTT. Để có điều này thì trường phải có tiền để mua
các trang thiết bị về CNTT như máy vi tính, máy chiếu, loa, micro,…Ở các trường
công lập, kinh phí này do Nhà nước lo, mà chỉ lo được cho mỗi trường trang bị một
vài phòng bộ môn thôi, nên mỗi học sinh được học trên lớp bằng CNTT có số lần
mỗi năm chỉ đếm trên đầu ngón tay. Còn ở các trường ngoài công lập, các trường
phải tự đi tìm nguồn tài chính để tự trang bị cho các phòng bộ môn của trường
mình! Đây là một vấn đề rất khó đòi hỏi tính nỗ lực rất cao của các chủ trường,
người bỏ tiền ra để mua các trang thiết bị và quan trọng nhất là mua được bao
nhiêu trang thiết vị CNTT!. Mà các trường tư thục cần có một sự đổi mới, sự
sáng tạo cao để hấp dẫn học sinh và để phụ huynh gửi con em họ vào học với
mong muốn sau khi tốt nghiệp THPT con em họ sớm hòa đồng với xã hội mà cuộc
cách mạng số 3.0 đang diễn ra gay gắt khi muốn xin một việc làm, nếu không
thành thạo vi tính thì khó xin được một việc làm.
II. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BẰNG CNTT.
1. Đưa CNTT không chỉ vào trường như chủ trường
cuả Bộ GD&ĐT mà phải đưa CNTT vào từng lớp học theo chủ trương của trường
Quang Trung.
Trên cơ
sở yêu cầu của xã hội khi một học sinh ra đới muốn xin được việc làm thì học
sinh phải thành thạo CNTT. Để trước mắt xử lý được các công việc hàng ngày, từ
các nhân viên ngân hàng đến các kế toán thủ quỷ của các công ty, trước mắt họ
lúc nào cũng có một máy vi tính. Trên cơ sở thực tiển đó, Ban giám hiệu trường
THPT Quang Trung hạ quyết tâm tìm nguồn tài chính để mua các trang thiết bị về
CNTT không chỉ trang bị một vài phòng của trường mà phải trang bị cho tất cả cả
các phòng học, biến tất cả các phòng học thành các phòng bộ môn, để cho tất cả
các học sinh đều được học trên lớp bằng CNTT, trước mắt bằng powerpoint.
Việc
này rất khó, chưa có trường nào thực hiện được do mức tiền quá cao. Nhưng
trường Quang Trung khi đã quyết tâm thì phải nỗ lực bằng mọi cách phải tìm nguồn
tài chính và từ sức lực của Ban giám hiệu phải truyền lửa đến tất cả giáo viên,
nhân viên để hợp sức thực hiện cho bằng được!
Chủ trường
và Ban Giám hiệu trường Quang Trung tìm các nguồn tài chính để mua các trang
thiết bị, lúc đầu trang bị 50% các phòng học, năm học sau tăng lên 70% và đến
hôm nay đã trang bị 100% các lớp học, biến
các lớp học thành các phòng bộ môn!
Tiếp đến phải lo đội ngủ giáo viên có
dạy được bằng CNTT trên lớp hay không. Lúc đầu trường còn tồn tại một số giáo
viên thỉnh giảng lớn tuổi không biết tin học được mời từ các trường công lập,
mà tập huấn cho các giáo viên này để dạy được trên lớp bằng CNTT là bất khả thi,
nên các năm học sau trường trường không mời các giáo viên này dạy nữa mà lại mời
các giáo viên mới ra trường có điểm tốt nhiệp giỏi, xuất sắc, nên việc tập huấn
cho các giáo viên biết dạy bằng CNTT bằng powerpoint trên lớp là khả thi.
2. Cao độ cho cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 của
trường THPT Quang Trung:
Trong năm học 2008-2009, trường
Quang Trung phát động trong Hội đồng giáo viên một đợt thi đua viết giáo án điện
tử bằng công cụ trình chiếu powerpoint,
tất cả các giáo viên trong các Tổ tự nhiên là Toán, Tin, Lý, Hóa, Công nghệ,
Sinh và tất cả các giáo viên trong các tổ Xã hội là Văn, Sử, Địa, Giáo dục công
dân, Tiếng Anh đều phải viết các giáo án điện tử bằng powerpoint. Sau đó, trong
tháng 9, Ban Giám hiệu mở một đợt kiểm tra để chọn các giáo án tốt nhất để chuẩn
bị cho Ngày Hội Công nghệ thông tin toàn trường, đồng thời cho ra mắt website
của trường có 2 tên:
thptquangtrung.vn và
thpt-quangtrung.danang.edu.vn
Cuối
tháng 11 năm 2008, trường THPT Quang Trung quyết định tổ chức Ngày Hội CNTT của trường để ghi rõ dấu ấn
sự chuyển mình và sự đổi mới của trường Quang Trung phục vụ cụ thể khát vọng của
trường là muốn biến một ngôi trường ở trung tâm thành phố Đà Nẵng này thành một
trường điện tử đầu tiên trong thành phố Đà Nẵng.
Trường
đã xin phép Sở GD&ĐT để tổ chức Ngày Hội CNTT của trường Quang Trung
và với sự đồng ý của Sở, trường đã gửi giấy mời đến lãnh đạo Sở, đến các đại diện
Phòng các của Sở, đến các đại diện Ban Giám hiệu các trường THPT trong thành
phố, đến các Giám đốc các Trung tâm GDTX-DN của thành phố Đà Nẵng về tham dự
Ngày Hội CNTT của trường Quang Trung.
Trong
buổi Lễ của Ngày Hội này, trước hết thầy Hiệu trưởng Phạm Sỹ Liêm đọc diễn văn
khai mạc, sau khi chào mừng quan khách đến dự Ngày Hội, thầy Hiệu trưởng nói
rõ ý nghĩa của Ngày Hội là quyết tâm của của trường có khát vọng đổi mới giáo dục bằng cách nỗ lực đưa CNTT không chỉ vào trường mà đang phấn đấu đưa
CNTT vào từng lớp học, được thể hiện ở
các nội dung: Tìm các nguồn tài chính để mua máy vi tính, máy chiếu hay ti vi
màn ảnh rộng để dần dần trang bị cho các phòng học; tập huấn cho tất cả giáo
viên biết soạn giáo án điện tử với powerpoint, biết dạy kết hợp từ phương pháp
truyền thống với màn hình điện tử powerpoint để nhiều học sinh được thụ hưởng một
nền giáo dục tiên tiến. Sau đó trường khai trương website thpquangtrung.vn của trường. Tiếp theo, đại
diện 11 tổ chuyên môn trình chiếu 11 bài giảng điện tử: Toán, Tin, Lý, Hóa,
Sinh, Công nghệ, Văn, Sử. Đia, Giáo dục công dân, Tiếng Anh. Cuối cùng trường
mời quý vị đại biểu lên 11 phòng bộ môn để các Tổ bộ môn trình chiếu các bài giảng
điện tử khác. Có thể nói Ngày Hội CNTT này là một sáng kiến đầu tiên cụ thể
hóa CNTT trong các trường THPT thành phố Đà Nẵng được các thầy cô tham dự
đánh giá cao.
III. TỪ CHỦ TRƯƠNG ĐƯA CNTT VÀO TRƯỜNG CỦA BỘ
GD&ĐT, TRƯỜNG QUANG TRUNG VỚI KHÁT VỌNG ĐƯA CNTT VÀO TỪNG LỚP HỌC VỚI BAO
NHIÊU GIAN NAN VẤT VÃ.
1.Khát vọng muốn nâng Bài giảng powerpoint lên
tầm cao hơn.
Mùa hè
năm 2009, từ khi Ông Cục trưởng Cục CNTT Bộ GD&ĐT Quách Tuấn Ngọc về tập huấn
Bài giảng điện tử e-Learning cho các cán bộ giáo viên cốt cán của Sở GD&ĐT
thành phố Đà Nẵng, hội đồng sư phạm trường Quang Trung xem như “một phép lạ” để trường Quang Trung tìm hiếu để nâng cấp và bổ sung khát
vọng xây dựng một trường học điện tử. Phải chăng Bài giảng được trình chiếu
bằng powerpoint với các độ lớn và màu của các con chữ, các hình ảnh phụ họa còn
có nhiều hạn chế tính hấp dẫn cho học sinh, có chăng đưa được các lời giảng của
thầy cô giáo vào đây thì tuyệt vời biết bao! Khi đó học sinh tự học trước ở
nhà mà không cần đi học thêm gây bức xúc cho xã hội thì không có gì tuyệt vời
bằng!
Qua
tham khảo phần mềm Lecture Maker của Hàn quốc, trường Quang Trung quyết tâm
nghiên cứu Bài giảng điện tử e-Learning. Trước khi về nghỉ hè năm 2009, Ban
Giám hiệu trường Quang Trung có ra một quyết định là tất cả giáo viên về
nhà nghiên cứu Bài giảng e-Learning mà Bộ vừa mới phổ biến và hiệu trưởng ra
chỉ đạo là mỗi giáo viên trong hè phải soạn cho bằng được một tiết dạy Bài giảng điện tử
e-Learning để khi tựu trường năm học mới 2009-2010 tất cả giáo viên phải báo
cáo cho Ban Giám hiệu.
Trong
buổi họp hội đồng đầu năm học 2009-2010, khi hiệu trưởng hỏi có giáo viên nào
đã soạn được Bài giảng điện tử e-Learning không, thì rất tiếc không có một giáo
viên nào soạn được cả.
Tình
hình lâm vào cảnh bế tắt, chẳng lẽ trưởng bỏ cuộc hay sao? Cái quyết tâm hiện đại
hóa giáo dục của trường Quang Trung biết làm sao đây?
Thầy Phạm
Sỹ Liêm sau nhiều ngày đêm tìm hiểu trên mạng, tham khảo với đứa con trai
đang du học sau đại học ở trường Đại học Beckley ở San Francisco bang
California, cuối cùng thầy Liêm đã tìm ra thêm một phần mềm để chèn lời giảng
bài của giáo viên lên bài giảng powerpoint. Từ đó mở ra được một giai đoạn hình thành được Bài giảng điện tử
e-Learning để được giảng dạy đại trà trên lớp!
Thế rồi
thầy hiệu trưởng tự soạn ra mỗi môn học một Bài giảng e-Learning, sau đó họp hội
đồng thầy trình chiếu cho cả hội đồng xem trên máy chiếu và nghe trên loa. Các
giáo viên phấn khởi và đồng tình về lại nhà với máy tính của mình, mua
thêm mic để thu âm lời giảng bài của chính mình theo 5 bước trên lớp.
Thế là
khó khăn đã vượt qua, một chân trời mới đã xuất hiện. Năm học mới 2009-2010 tất cả học sinh trường THPT
Quang Trung được thụ hưởng một kết quả do công trinh nghiên cứu của hội đồng sư
phạm trường Quang Trung đã dày công khổ luyện làm ra.
1.
Hướng dẫn giáo viên soạn Bài giảng điện tử e-Learning:
Trường
quy định: Giáo án điện tử này phải soạn
giống như giáo án truyền thống mà thầy cô đã soạn từ trước đến nay, nghĩa là
phải tuân theo 5 bước có phân phối thời gian rõ ràng:
Bước 1 (1 phút): Ổn định lớp: Giáo viên sau khi cho học sinh đứng dậy, lớp trưởng báo
cáo số lượng và tên học sinh vắng để giáo viên ghi vào giáo án và cho học sinh
ngồi xuống theo sơ đồ lớp;
Bước 2 (5 đến 7 phút):Kiểm tra bài cũ: Giáo viên soạn 3 câu theo 3 trình độ: khó, trung bình, yếu
(soạn trước ở tiết trước đó để học sinh chuẩn bị trước ở nhà) và dò bài học
sinh bằng đĩa dò bài hay bằng cách khác nào đó, có cho điểm công khai;
Bước 3: (33 đến 35 phút): Giảng bài mới: Tùy theo chỉ đạo của từng môn học có thể chia thành 2 đến 3
cột. Đây là phần cơ bản của bài giảng;
Bước 4: (2 phút): Củng cố: Phần
cơ bản nhất và ngắn gọn nhất của tiết dạy mà học sinh phải nhớ khi rời phòng học,
phải khắc sâu ngay, được xem như một đơn vị kiến thức mà học sinh phải nhớ đời;
Bước 3: (3phút):Hướng đẫn học ở nhà(không dùng: Dặn
dò): Soạn 3 câu hỏi khó, trung bình, dễ để
dò bài tiết sau.
Sau
thành công rực rỡ bước đầu này, tất cả giáo viên căn cứ vào phân phối chương
trình của Sở và của trường mà soạn Giáo án điện tử e-Learning trước ít nhất là
trước 2 tuần để nộp cho hiệu trưởng phê duyệt. Các bài giảng nào chưa đạt yêu
cầu như bị khống chế về thời gian, không đủ các bước, tiếng giảng bài còn nhỏ,
tên các bài giảng không đúng quy định đều bị trả lại để soạn lại tốt hơn.
3. Đưa Bài giảng e-Learning lên trang web thptquangtrung.vn của
trường để giáo viên học sinh trường Quang Trung soạn bài và tự học ở nhà trước
khi lên lớp cũng như để cho giáo viên trên cả nước và trên thế giới tham khảo:
Sản xuất
được tới đâu, trường đưa ngay lên mạng cho học sinh học.
Các sản
phẩm Bài giảng e-Learning mà giáo viên soạn được có duôi .lme, chỉ đọc và nghe
được khi máy tính có cài phần mềm Lecture Maker của Hàn Quốc. Bài giảng có
đuôi .lme cũng không đưa lên mạng được. Muốn đưa lên trang web của trường Quang
Trung thì phải đôi đuôi .lme sang đuôi .lmd khá phức tạp và công phu. Như vậy,
do chỉ bản thân thầy Liêm mới làm công việc này, không phân cho giáo viên
nhân viên nào, nên thầy Liêm phải ngày đêm lần mò đổi đuôi từ đuôi .lme sang
đuôi .lmd. Mà với một file của một tiết dạy, thời gian đưa được lên mạng phải mất
trên dưới 10 phút. Chẳng hạn môn Toán có 3 khối lớp 10, 11, 12, mà trường Quang
Trung thay vì 3 tiết dạy một tuần, trường đã tăng lên từ 5 đến 7 tiết, mà mỗi
tiết dạy không chỉ một người dạy mà có từ 2 đến 4 người dạy, nên số file đưa
lên mạng cho một tiết dạy trung bình là 8 file. Một năm có 36 tuần, nên số file
phải đưa lên mạng của một khối lớp là 8X36=288 file, nhân cho 3 khối lớp là 864
file. Với cả 11 môn học, số file đưa lên mạng trên dưới 10.000 file, nhân cho
10 phút là 100.000 phút hay 1.667 giờ hay 70 ngày. Như vậy việc đưa lên mạng
để hình thành bộ Sách giáo khoa điện tử bậc THPT này thật là công lao.
Một khó khăn nữa, nếu dung lượng
của trang web các trường khác là 0.5GB thì dung lượng trong web trường Quang
Trung lên đến 25GB, tức là cao gấp 50 lần so với các trang web khác, cho nên
trường Quang Trung phải làm việc với công ty Tin học Đà Nẵng và đóng tiền rất
cao. Điều đáng tiếc là trong hai năm gần đây, máy chủ không đủ dung lượng để tải
nên các bài giảng e - Learning tạm thời dừng hoạt động. Để hình thành sự tồn tại của công trình SGK điện tử này,
trường Quang Trung phải tìm ra một phương án khác!
4. Các giai đoạn để hình thành bài giảng điện tử
e - Learning.
Như chúng tôi đã thông báo, Bộ
GDĐT chỉ yêu cầu mỗi giáo viên bậc THPT chỉ cần một năm soạn cho được một bài
giảng điện tử e – Learning mà thôi. Mà trường Quang Trung lại có khát vọng
muốn tất cả giáo viên phải biết soạn 100% bài giảng điện tử e - Learning để dạy trên lớp. Đây là một
yêu cầu rất cao để hình thành tất cả các bài giảng điện tử e - Learning từ tuần
1 đến tuần 36 cho tất cả 11 môn học từ lớp 10 đến lớp 12, và nếu thực hiện
được thì đúng là một công trình vĩ đại, đòi hỏi tiền của và công sức với
sự nỗ lực rất lớn của trường Quang Trung.
Từ năm học
2009 - 2010 tất cả các giáo viên trường Quang Trung đều phải soạn trước ít nhất
hai tuần bài giảng điện tử e - Learning.
Tất cả các bài giảng này đều phải nộp cho hiệu
trưởng xét duyệt, bài giảng nào chưa đạt yêu cầu thì trả lại để bổ sung. Trong
thời gian đầu, các bài giảng e - Learning có đuôi là .lne, với đuôi này thì
không phải máy tính nào cũng đọc được, và chỉ đọc được khi máy tính đó có cái
phần mềm Lecture Maker của Hàn Quốc. Trong học kỳ I, trường chỉ đạo khi soạn
các bài giảng này phải theo một thứ tự bắt buộc có tính khoa học như sau:
"Tuần thứ - Tiết thứ - Tên bài giảng - Tên giáo viên".
Kết quả là trong học kỳ I, trường
hình thành 11 folder có tên 11 môn học Toán, Lý, Hóa, Sinh, Công nghệ,
Tin, Văn, Sử, Địa, GDCD, Tiếng Anh. Trong mỗi folder, có các file là các bài
giảng của nhiều giáo viên. Điều cần lưu ý, là một tiết dạy điện tử được nhiều
giáo viên soạn, cho nên có nhiều môn, mỗi tuần chỉ theo PPCT có 2 đến 3 tiết,
thì tuần đó có từ 6 đến 10 file, do nhiều giáo viên cùng soạn và do có một số
tiết phụ đạo và nâng cao do trường tăng tiết dạy.
Sau kết quả khả quan ở học kỳ I,
trường THPT Quang Trung họp hội đồng để sơ kết rút kinh nghiệm bài giảng điện
tử ở học kỳ I và sau đó triển khai soạn bài giảng điện tử e - Learning học kỳ
II. Kết quả là cuối học kỳ II mỗi môn học đều có một folder chưa các file theo
PPCT của trường ở học kỳ II. Nếu tổng hợp lại 2 học kỳ thì được Bài
giảng điện tử e-Learning cả năm.
5. Báo cáo công trình số hóa bộ SGK giấy thành
bộ SGK điện tử lên Chính phủ và lên Bộ GDĐT.
Đầu năm học 2010 - 2011, sau khi
tập hợp các folder và xếp theo thứ tự các file từ tuần 1 đến tuần 36, hiệu trưởng
trường THPT Quang Trung gửi kết quả này lên Thủ trưởng Nguyễn Tấn Dũng, các
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Vũ Đức Đam và Bộ trưởng Bộ GDĐT Phạm Vũ Luận.
Sau đó 1 tháng, trường Quang Trung rất
vui mừng được sự phản hồi:
- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng qua
thư có bút phê của thủ tướng giao cho chánh văn phòng Thủ tướng Nguyễn Khắc
Định ký và chuyển kết quả này đến Bộ GDĐT và ghi nhận công trình số hóa SGK
này.
- Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
đã gửi thư khen ngợi trường Quang Trung:
"Xin cảm ơn Ông đã gửi cho tôi về
hiện đại hóa giáo dục và ứng dụng bộ đĩa DVD về số hóa SGK bậc THPT.
Trong những năm qua, Ông và trường Quang Trung đã có nhiều đóng góp tích cực
cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đặc biệt sáng kiến ứng dụng 13 đĩa DVD số
hóa SGK 11 môn học lớp 10, 11, 12 đã góp phần thiết thực vào việc triển khai
Nghị quyết TW8 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo".
- Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đã điện
thoại trực tiếp cho hiệu trưởng Phạm Sỹ Liêm là đã nhận được bộ đĩa DVD và khen
ngợi công lao của hiệu trưởng và trường Quang Trung.
- Trong thư của Bộ trưởng Bộ
GDĐT Phạm Vũ Luận có đoạn:
"Tôi đã nhận thư và bộ đĩa
DVD của Thầy gửi Phó thủ tướng Vũ Đức Đam và gửi cho tôi kèm theo ý kiến hiện đại
hóa giáo dục theo theo tinh thần Nghị quyết số 29. Tôi đã chỉ đạo Bộ phận thường
trực đổi mới chương trình SGK và các đơn vị chức năng của Bộ nghiên cứu nội
dung Công trình số hóa SGK hiện hành bậc THPT mà Thầy và đồng nghiệp đã công
phu chuẩn bị trong thời gian vừa qua"
- Trong Công văn số 3876/BGDĐT - GDTrH ngày 31/7/2015 do Phó Vụ trưởng
Vụ Giáo dục trung học Nguyễn Xuân Thành thừa lệnh Bộ trưởng ký và đóng dấu có
đoạn: " Bộ giáo dục và đào tạo hoan nghênh sự cố gắng của nhà trường về
việc tổ chức sản xuất bộ đĩa DVD phục vụ dạy học trong trường trung học."
6. Việc đưa 10.000 Bài giảng e - Learning lên
trang web thptquangtrung.vn của trường THPT Quang Trung.
Sau khi
hoàn chỉnh số hóa 33 bộ SGK điện tử, cả năm học trường đưa hoàn chỉnh
lần thứ hai lên trang web trường:
Sản phẩm số hóa 33 cuốn SGK giấy
thành 33 quyển SGK điện tử e - Learning là một công trình công phu vĩ đại có một
không hai trong cả nước. Tuy nhiên, các file sản phẩm này đều ở dưới đuôi .line
nên với đuôi này không thể đưa lên internet được. Vì thế trường phải chuyển từ
đuôi .line sang đuôi .lmd và thầy hiệu trưởng đã ngày đêm trong vòng 2 tháng
trời mới đưa hết lên trang web của trường, ở địa chỉ dòng trên cùng trang web:
BÀI GIẢNG E – LEARNING CN.
CN là cả năm, gồm học kỳ I và học
kỳ II cho cả 11 môn học: Toán, Tin, Lý, Hóa, Sinh, Công Nghệ, Văn, Sử, Địa,
GDCD, Tiếng Anh.
BÀI GIẢNG E - LEARNING HK II.
HKII là bài giảng e - Learning
HKII sau khi điều chỉnh thêm bớt phần HKII của cả năm, trong đó có thêm nhiều
bài giảng e - Learning luyện thi THPT và đại học, cao đẳng.
7. Việc
sản xuất ra một bộ đĩa DVD dùng cho mọi máy vi tính mà không cần máy tính phải
cài phần mền Lecture Maker.
- Sản phẩm bài giảng e - Learning nguyên thủy có đuôi .line mà khi
thâu vào một USB hay một đĩa DVD không phải máy tính nào cũng sử dụng được mà
máy tính phải cài phần mềm Lecture Maker.
- Để tránh các hạn chế đó, để cho
tất cả các máy vi tính đều sử dụng nghe và thấy được bài giảng e - Learning
y hệt như một giáo viên dự giờ trên lớp, hiệu trưởng Quang Trung cần tìm ra một
phương pháp mới biến 10.000 file e - Learning nguyên thủy thành ra 10.000 file có thể sử dụng được trên mọi máy tính. Đây
cũng là một công việc rất vất vả và rất khổ cực của hiệu trưởng. Muốn thế, mỗi
file có đuôi .line phải tìm cách chuyển sang file có đuôi .exe. Công việc khó
khăn này cũng cần thời gian làm việc 2 tháng kể cả ngày và đêm. Cuối cùng, bộ đĩa
DVD nguyên thủy đã chuyển sang bộ đĩa DVD có đuôi .exe mà mọi máy vi tính
nào cũng dùng được, không cần máy phải cài phần mềm Lecture Maker.
8. Việc sắp xếp lại các thành quả này theo môn
học, theo tuần và theo file.
Do một tiết học của một môn học
là do nhiều giáo viên sản xuất, nên hiệu trưởng phải sắp xếp lại theo môn, mỗi
môn theo tuần, mỗi tuần theo thứ tự file. Đây là một việc cũng rất vất vả và
tốn nhiều thời gian.
Với một môn học, khi được sắp xếp
theo từng folder, mỗi folder gồm nhiều file trong một tiết dạy. Có đến 36 tuần
của một năm như vậy mỗi môn học có đều 36
tuần, ví dụ folder môn Toán 12 có đến 36x10= 360 file. Do số file
nhiều quá làm cho học sinh khó tìm
ra file để học, nên thầy Liêm lại chia mỗi tuần là một folder con, mỗi
folder con có từ 6 đến 10 file. Như vây các môn chứa quá nhiều file như
Toán, Lý, Hóa, Tin, Văn, Tiếng Anh thì mỗi folder môn học chia ra 36
folder con. Còn các môn còn lại không chia theo các folder con.
Tóm lại, đây là một khối lượng khổng
lồ mà hiệu trưởng Phạm Sỹ Liêm vì đam mê mà bỏ ra một thời gian rất dài (thay vì nghỉ ngơi tuổi hưu trí) để hình
thành một công trình biến 33 bộ sách giáo khoa giấy hiện hành thành 33
bộ sách giáo khoa điện tử e-Learning (còn
gọi là bộ giáo án điện tử e – Learning), mà nếu có một cơ quan nào đó thực hiện thì số tiền trên
chi phí lên đến hàng nhiều tỉ đồng.
9. Việc sản xuất đại trà ra các bộ đĩa DVD sách
giáo khoa điện tử này.
- Khi đã hình thành duy nhất nên
bộ sách điện tử e-Learning này, trường
Quang Trung muốn phổ biến đại trà nên cần phải sao in ra nhiều bản khác.
- Trước tiên, hiệu trưởng sử dụng máy vi tính: đó là dùng phần mềm
sao chép đĩa CD/DVD bằng Nero. Bản thân Nero cũng có nhiều phiên bản, phải tìm
một phiên bản mới để sao in nhanh nhất. Trong quá trình sao in một đĩa DVD phải
tốn trên dưới 20 phút, do vậy để sao in 33 đĩa DVD thì rất tốn nhiều thời
gian. Nếu muốn thâu ra chỉ một đĩa DVD cho một môn thì thời gian cũng phải mất đến 10 giờ, mà
cần sao ra 1000 bản phải mất 10.000 giờ. Thật là gay go phải không? Đây là
một bài toán khó cần phải có trí tuệ để giải quyết!
- Để giải quyết bế tắt này, thầy hiệu trưởng tìm hiểu các cơ sở sao
in đĩa CD và DVD bán trên thị trường các băng nhạc. Từ đó tìm ra được một máy
sao in được 1 lần 10 đĩa thời gian sao in đĩa DVD 10 phút. Để tăng tốc độ in,
trường đã mua thêm 3 máy sao in nữa. Như vậy, trong khoảng thời gian 4 tháng,
trường Quang Trung đã sao in ra khoản 10.000 bộ đĩa DVD các bài giảng điện tử
e - Learning.
10. Thực hiện hoài bảo “hiện đại hóa nền giáo dục” như lời của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
trường Quang Trung đã làm những việc gì?
Tuân thủ theo lời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gửi
thư cho Ông Phạm Sỹ Liêm “ Xin
cảm ơn Ông đã gửi cho tôi về hiện đại hóa giáo dục và ứng dụng bộ đĩa DVD về số
hóa SGK bậc THPT”, trường Quang Trung đã nảy sinh ra một ý tưởng làm
thế nào để các trường THPT trước hết tại thành phố Đà Nẵng và sau đó là 63 tỉnh thành đều có bộ đĩa DVD này để tham
khảo trong quá trình dạy học cả năm. Từ đó, trường Quang Trung đã xuất tiền ra
để gửi bưu điện và tiền công sao in gửi miễn phí tặng cho hơn 2500 trường
trung học phổ thông và các trung tâm GDTX – DN trên cả nước và giới thiệu nếu
trường nào giáo viên nào cần mua thì chúng tôi sẽ đáp ứng. Có một số trường và
1 số giáo viên đã phản hồi, nhưng rất tiếc số lượng này chưa cao. Theo nhận
xét của chúng tôi, hiện nay hầu hết các trường
học lên lớp bằng phương pháp truyền thống với chủ yếu bằng viên phấn bảng
đen, mặc khác Bộ GDĐT chưa có chủ trương hiện đại hóa giáo dục nên công trình
của chúng tôi chưa được đáp ứng đại trà. Nói cách khác, ngành giáo dục chưa có
chủ trương số hóa 33 bộ sách giáo khoa
giấy hay chưa thực hiện ráo riết cuộc cách mạng công nghiệp 3.0, trong đó lấy
công nghệ thông tin làm nền tảng, nên việc tiến công vào cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 của ngành giáo dục vẫn còn xa vời.
Để tìm lại nguồn tiền mà
trường đã bỏ ra để làm công việc hiện đại hóa giáo dục này, chúng
tôi có nghĩ đến tính hào phóng của các đại gia trên cả nước, nên
chúng tôi đã gửi thư kèm theo bộ đĩa và kêu gọi các đại gia mua một
số đĩa để tặng các học sinh nghèo, khuyết tật, học sinh miền núi
hải đảo. Kết quả là rất tiếc chúng không nhận được phản hồi của
một đại gia nào! Có lẽ chúng tôi phải chờ thời gian để Đảng và Nhà
nước, Bộ GD&&ĐT có chủ trương hiện đại hóa giáo dục, biến
cuộc cách mạng 2.0 này của ngành giáo dục sang cuộc cách mạng 3.0
để làm đòn bẩy cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thay vì Bộ
GD&ĐT chỉ đang lay hoay với bộ SGK mới chỉ phục vụ cho cuộc CMCN
2.0!
Phần thứ hai
Việc hiện đại
hóa nền giáo dục của trường THPT Quang Trung làm đòn bẩy để ngành giáo dục tiến
công vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
I. Thế nào là
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
“ Cách mạng công nghiệp 4.0”,
viết tắt là CMCN 4.0 hay cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra
tại nhiều nước phát triển. Nó mang đến cho nhân loại cơ hội để thay đổi bộ mặt
các nền kinh tế, nhưng lại tiềm ẩn nhiều rủi ro không lường.
Trong những ngày qua, khái niệm “
Cách mạng công nghiệp 4.0” hay là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được nhắc
đến trên nhiều phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Cùng với đó là những hứa
hẹn về cuộc “đổi đời của các doanh nghiệp tại Việt Nam” nếu đón được làng sóng
này. Vậy cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là gì?
1. Định nghĩa.
Theo Gartner, cách mạng công nghiệp 4.0 xuất
phát từ khái niệm “ Industrie 4.0” trong một báo cáo của chính phủ Đức năm
2013. “ Industrie” kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để
tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công nghiệp. Kinh doanh, Chức năng và quy
trình bên trong.
Để dễ hiểu hơn Klaus Schwab, người
sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn kinh tế thế giới mang đến cải nhìn đơn
giản hơn về cách mạng công nghiệp 4.0 như sau:
“ Cách mạng công nghiệp đầu tiên
sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cách mạng công
nghiệp lần thứ 2 diễn ra nhờ ứng dụng dụng điện năng để sản xuất ra
hàng loạt. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 sử dụng điện tử và
công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4 đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần thứ 3, nó kết hợp các công nghệ lại
với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học”.
Theo Klaus Schwab, tốc độ đột phá
của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện “ không có tiền lệ lịch sử”. Khi so sánh với
các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, 4.0 đang tiến triển theo một hàm số
mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Hơn nữa, nó đang phá vỡ hầu hết ngành
công nghiệp ở mọi quốc gia. Và chiều rộng và chiều sâu của những thay đổi này
báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị.
2. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra như thế
nào?
Nối tiếp từ định nghĩa của Klaus
Schwab, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm: Công
nghệ sinh học, Kỹ thuật số và Vật lý.
- Những
yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là:
+ Trí tuệ nhân đạo (Al)
+ Vạn vật kết nối – Internet of
Things (IOT)
+ Dữ liệu lớn (Big Data)
- Trên
lĩnh vực Công nghiệp sinh học, cách mạng công nghiệp 4.0 tập trung vào nghiên cứu
để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược, Chế biến thực
phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu.
- Trong
lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới
(graphene, skyrmions...) và công nghệ nano.
Hiện nay, cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, châu Âu,
một phần châu Á. Bên cạnh những cơ hội mới, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt
ra cho nhân loại nhiều thách thức phải đối mặt.
3. Cơ hội kèm thách
thức và rủi ro toàn cầu.
Mặt
trái của cách mạng công nghiệp 4.0 là nó có thể gây ra sự bất bình đẳng. Đặc biệt
là nó có thể phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay đổi lao động chân
tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con người trong nhiều lĩnh vực hàng
triệu lao động trên thế giới có thể thay vào cảnh thất nghiệp, nhất là những
người làm trong lĩnh vực bảo hiểm, môi giới bất động sản, tư vấn tài chính, vận
tải.
Báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới đã
đặt ra vấn dề này theo các giai đoạn khác nhau. Giai đoạn đầu tiên sẽ là thách
thức với những lao động văn phòng, trí thức, lao động kỹ thuật. Giai đoạn tiếp
theo sẽ là lao động giá rẻ, có thể sẽ chậm
hơn. Với sự chuyển động của cuộc cách mạng này, trong khoản 15 năm tới thế giới
sẽ có diện mạo mới, đòi hỏi các doanh nghiệp thay đổi.
Sau đó, những bất ổn về kinh tế nảy sinh
từ cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ dẫn đến những bất ổn về đời sống. Hệ lụy của nó
sẽ là những bất ổn chính trị. Nếu chính phủ các nước không hiểu rõ và chuẩn bị
đầy đủ cho làn sóng công nghiệp 4.0, nguy cơ xảy ra bất ổn trên toàn cầu là
hoàn toàn có thể. Bên cạnh đó, những thay đổi về cách thức giao tiếp trên
internet cũng đặt con người vào nhiều nguy hiểm về tài chính, sức khỏe. Thộng
tin cá nhân nếu không được bảo vệ một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ lụy không
hưởng.
Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến cơ hội
và cũng đầy thách thức với nhân loại.
II. Tại sao trường Quang
Trung hiện đại hóa nền giáo dục thông qua các công việc kéo dài 10 năm để số
hóa Bộ SGK giấy thành Bộ SGK điện tử và tỏ chức dạy đại trà Bài giảng
điện tử e- Learning trên lớp là tiền đề để ngành giáo dục tiến công vào cuộc
cách mạng công nghệ 4.0?
1.
Các lý do:
1.1-
Đưa CNTT vào từng lớp học là trường Quang Trung đã thực hiện cuộc cách mạng
công nghiệp 3.0 của ngành giáo dục. Vì sao trong 10 năm qua, trường
Quang Trung đã có khát vọng hiện đại hóa nền giáo dục, bằng cách
đưa CNTT vào dạy đại trà trên lớp, đã số hóa Bộ SGK giấy hiện hành
thành Bộ SGK điện tử, để giáo viên sử dụng như là một giáo án điện
tử, để học sinh tự học ở nhà mà không cần đi học thêm? Đó là trường Quang Trung muốn ngành giáo dục phải
thay đổi từ cuộc CMCN 2.0 thành cuộc CMCN 3.0 để ngành giáo dục có thể
tiếp cận cách mạng công nghiệp 4.0. Để làm được điều này,
ngành giáo dục cần phải có một chiến lược cụ thể và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
- Chiến lược cụ thể của cơ quan đào tạo nguồn nhân lực là
trách nhiệm của Bộ Giáo dục và đào tạo;
-
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là Bộ GD&ĐT không thể để
ngành giáo dục chỉ có chủ trương dạy trên lớp bằng viên phấn bảng
đen cách đây hàng thập kỷ với cuộc CMCN 2.0 được, mà khi đổi mới và
hiện đại hóa giáo dục theo Nghị quyết 29 không chỉ đổi mới bằng cách thay đổi SGK giấy mà
phải có chiến lược cụ thể bằng cách đưa CNTT vào từng lớp học, phải thay đổi chiến lược “đưa CNTT vào trường” thành
chiến lược “đưa CNTT vào lớp học ” để đổi CMCN 2.0 hiện nay thành CMCN
3.0, từ đó ngành giáo dục mới có khả năng giúp Đảng
và Nhà nước có đủ nhân lực tiến công vào cuộc CMCN 4.0 được.
1.2-
Theo TS Cấn Văn Lực, cố vấn cấp cao Chủ tịch HĐQT ngân hàng BIDV “là
một nước nhanh nhạy về CNTT, Việt Nam hoàn toàn có thể tiếp cận
cuộc CMCN 4.0, tuy nhiên cần có chiến lược cụ thể và cần phải nâng cao
nguồn nhân lực”
Ông lấy ví dụ tại Hội thảo APEC, các nước đều nhận xét tốc độ wifi ở Việt
Nam là nhanh và tốt nhất trong 21 nước tham gia tại buổi họp. Hiện nay, 53% dân
số Việt Nam đã tiếp cận với internet, cao hơn mức trung bình của thế giới là
48%. Tại Việt Nam, số lượng người sử dụng internet tăng bình quân 16% một năm.
Ông Lục kết luận “ Có thể nói Việt Nam đã tiếp cận sớm với 4.0 và cuộc
cách mạng này đã đi vào cuộc sống”.
Theo ông, lợi thế của Việt Nam trong cuộc cách mạng này lần này là dân số
trẻ nhanh nhạy, dễ thích ứng với những điểm mới của công nghệ. Tuy nhiên, Việt
Nam đang thiếu tầm nhìn và thiếu tính chuyên nghiệp, đó là trách nhiệm của
ngành giáo dục, của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT, nên năng suất lao động thấp do hạn chế về kiến thức trình độ kỹ
năng, CNTT ứng dụng chưa mạnh, quy trình
phức tạp, phối kết hợp chưa hết.
Về phía các doanh nghiệp không nên bỏ lỡ cách mạng công nghiệp 4.0,
ông Lực khuyên các doanh nghiệp Việt Nam nên xây dựng một chiến lược kinh doanh
cụ thể trên nền tảng công nghệ số, gia tăng hàm lượng công nghệ trong sản xuất
và tích cực nâng cao trình độ của đội ngũ nhân viên.
1.3 Cũng trong buổi hội thảo, ông Trương Gia Bình,
chủ tịch HĐQT tập đoàn FPT cho biết dù
cách mạng 4.0 có thể làm cho nhiều nghề biến mất, nhiều người dự báo thất nghiệp
nhưng đây vẫn là cuộc cách mạng tất yếu mà con người chỉ có thể chọn cách tham
gia hoặc bị loại khỏi “ cuộc chơi”. Lợi thế nhất cho doanh nghiệp Việt Nam là cả
thế giới đều bước vào cuộc cách mạng 4.0 ở cùng một vạch xuất phát. Nếu các
doanh nghiệp Việt Nam nhanh chân, đầu tư cho việc nghiên cứu, phát triển sản
phẩm theo hướng 4.0 thì rất có thể, sau cuộc cách mạng, vị thế nước Việt Nam,
của doanh nghiệp Việt trên thị trường quốc tế sẽ hoàn toàn khác.
1.4- Thời đại tiến công vào cuộc CMCN 4.0, tại
sao giáo dục Việt Nam đang ở giai đoạn 2.0?
Nếu thử so sánh với tương quan của thời
đại 4.0, thì trình độ phát triển giáo dục của Việt Nam đang chậm hẳn 2 giai đoạn.
Điều đó đặt ra thách thức lớn cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục Việt Nam.
Trong hội thảo “ phát triển năng lực
cán bộ quản lý giáo dục Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0” do Học
viên quản lý giáo dục tổ chức với sự tham gia của hơn 10 đoàn đại biểu đến từ
Mỹ, Italia, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, Philippin, Lào
đã cùng thảo luận chia sẽ kinh nghiệm với Việt Nam.
Theo GS.TS. Nguyễn Lộc: Hiện đang có một
số nghiên cứu bàn về việc phân chia các giai đoạn phát triển của giáo dục theo
tiếp cận của thời đại công nghệ 4.0 thì xem giáo dục Việt Nam đang ở giai đoạn
nào, từ đó có thể đề ra những canh tân cần thiết để bắt kịp yêu cầu của cách mạng
công nghiệp 4.0.
Theo đó, ông J.C.B đã tổng hợp và phân
giáo dục làm 4 giai đoạn là giáo dục 1.0, giáo dục 2.0, giáo dục 3.0, giáo dục
4.0 trong các khoản thời gian tương đương với các cuộc cách mạng công nghiệp,
theo 5 đặc trưng của giáo dục: công nghệ, trình độ kỹ thuật số, giảng dạy, trường
học và đầu ra.
Nếu xét riêng một số đặc tính như
chương trình, công nghệ, dạy học và trường học, thì giáo dục Việt Nam đang chủ
yếu tiếp cận chương trình theo đơn ngành và đa ngành, sử dụng công nghệ ở mức độ
giấy và bút chì, máy tính, dạy học chủ yếu là một chiều hay hai chiều.
Theo GS.TS Nguyễn Lộc, các phân tích
trên có thể cho ta hình dung một cách hết sức sơ lược rằng giáo dục Việt Nam
đang ở giai đoạn 2.0. Như vậy, để tiến tới giáo dục 3.0 và giáo dục 4.0 đặt ra
nhiều thách thức lớn.
Chính Nghị quyết số 29-NQ/TW đã nêu những
tồn đọng “ quản lý giáo dục và đào tạo
còn nhiều yếu kém, đội ngũ bất cập về số lượng, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm
đạo đức nghề nghiệp. Tư duy về chỉ đạo giáo dục chậm đổi mới, vẫn nặng nề về chỉ
đạo, quản lý theo hành chính, mệnh lệnh, cơ chế xin cho, hệ thống văn bản phát
luật, quy chuẩn về số lượng, trình độ chuyên môn phẩm chất đạo đức của cán bộ
quản lý đã đươc xây dựng khá chi tiết nhưng ít có tác dụng”.
1.5- Các phẩm chất của Nhà quản lý giáo dục Thời đại
4.0 là gì?
- 4 đặc điểm chính: toàn cầu hóa quốc
tế hóa, tốc độ CNTT, kinh tế thị trường, kinh tế trí thức.
- Cần được đổi mới theo hướng lấy người
học làm trung tâm và ưu tiên phát triển các phương tiện công nghệ hỗ trợ giảng dạy.
Theo TS Kim Kwang Kun và TS Yoon Sung Yeon
của Hàn Quốc: Công nghệ chính là một công cụ để giải quyết thách thức trong quản
lý giáo dục. Theo đó, nếu nói về giáo dục thời đại 4.0 là nói đến khả năng sử dụng
dữ liệu để hướng đến bản chất của giáo dục thời đại 4.0. Giáo dục cá nhân hóa,
nghĩa là giáo dục phải phù hợp đến từng người học, cá nhân học sinh, người lao
động. Cán bộ quản lý giáo dục phải am hiểu và tích cực ứng dụng CNTT để phục vụ
mục tiêu giáo dục cá nhân hóa. Qua phân tích bằng công
nghệ, định hướng nghề nghiệp cho học sinh, thanh
niên. Từ đó tư vấn cho họ biết họ phù hợp với năng lực nghề nghiệp nào,
cần phát triển năng lực nào.
Việc ứng dụng công nghệ, theo TS. Nguyễn
Thị Thanh Hưng “ Việt Nam hiện nay có khoảng 1/3 dân số biết đến mạng xã hội
Facebook, nên các trường sử dụng Facebook cá nhân để quản lý như một kênh hiệu
quả để thiết lập diễn đàn trao đổi, cung cấp chương trình học để bắt kịp xu hướng
phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0.
2. Định hướng nghề nghiệp cho học sinh trong cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0
Ngày nay khi cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đang diễn ra, nó đã làm thay đổi lớn về cơ cấu ngành nghề
trong tương lai. Một vấn đề đặt ra cho các em học sinh đang ngồi trên ghế nhà
trường THPT cần lựa chọn nghề gì trong tương lai.
Công nghiệp 4.0 với các thành tựu của Trí
tuệ Nhân tạo, với máy móc tự động và thông minh như ô-tô tự lái, in ấn 3 chiều,
kết nối vạn vật (IOT), công nghệ sinh học và công nghệ nano,… đã làm thay đổi
quan niệm về lao động, về kỹ thuật mà robot sẽ làm thay con người ở rất nhiều
lĩnh vực. Từ đây nó làm thay đổi cơ cấu ngành nghề lao động, trình độ lao động
của nhân loại trong những năm tiếp theo. Điều này có ảnh hưởng gì đến lao động
Việt Nam trong những năm tới, hay nói cách khác nó có ảnh hưởng gì tới những
quyết định về lựa chọn nghề nghiệp, lựa chọn môi trường học tập cho mình của
các em học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường.
Trong những năm gần đây các em
học sinh và phụ huynh của các em đang đứng trước nhiều xu hướng lựa chọn, trong
đó có lựa chọn tham gia thị trường lao động sau tốt nghiệp phổ thông, tham gia
thị trường xuất khẩu lao động, lựa chọn con đường du học để được tham gia thị
trường lao động ở các nước có thu nhập cao hay lựa chọn một ngành nghề để tham
gia học tập ở một trường Đại học để có một công việc ổn định và vững chắc trong
tương lai. Thực tiễn trong những năm gần đây xu hướng lựa chọn được các em có
lực học trung bình và trung bình khá rất quan tâm đó là tham gia thị trường lao
động sau tốt nghiệp phổ thong, tham gia thị trường xuất khẩu lao động, lựa chọn
con đường du học để được tham gia thị trường lao động ở các nước có thu nhập
cao. Lựa chọn con đường này các em chỉ xác định cái được trước mắt là kinh tế
và có chút tay nghề ngành mà mình làm, tuy nhiên nếu nhìn xa hơn với xu thế
thay đổi cơ cấu lao động và đặc biệt khi ảnh hưởng của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 mạnh mẽ và rõ rệt hơn thì đây là sự lựa chọn không hẳn đã phù hợp vì
trong hoàn cảnh đất nước ngày càng phát triển, các ngành kinh tế mới đòi hỏi
lao động có chuyên môn nghiệp vụ cao hơn và đối tượng lao động phổ thông sẽ dần
được thay thế bằng lao động đã qua đào tạo. Bên cạnh đó một thực trạng đó là
lao động phổ thông thường tham gia các nghành gia công, lao động nặng nhọc
lương thấp, cùng với đó khi có tay nghề và lương cao theo thời gian các doanh
nghiệp sẽ sẵn sang thay thế bằng số lao động phổ thông mới giá rẻ hơn khi mà
nhóm lao động đã qua đào tạo không có hiện tượng đó do họ có trình độ tay nghề,
có khả năng ứng dụng công nghệ đáp ứng thực tiễn sản xuất của doanh nghiệp.
Vậy, để có được một tương lai vững
chắc, để có được trình độ đáp ứng sự thay đổi của thực tiễn mỗi em sinh viên
ngay từ bây giờ phải cần xác định rõ ràng mục đích và tương lai của mình. Điều
này chỉ có thể có được khi các em học sinh lựa chọn một ngành nghề khi học
chuyên nghiệp. Năm 2018 có nhiều điểm thay đổi trong quy chế thi cũng như hình
thức xét tuyển của các trường. Sẽ có những trường vượt lên với điểm tuyển sinh
cao và ngược lại có những trường hạ điểm để thu hút sinh viên. Tuy vậy, sự cạnh
tranh của học sinh và các bậc phụ huynh chủ yếu tập trung vào những yếu tố
- Ngành học nào mình yêu
thích.
- Điều kiện đảm bảo yêu cầu ngành tuyển.
- Nhu cầu xã hội về ngành nghề mình lựa chọn.
Từ những yếu tố trên có thể
thấy sự lựa chọn ngành nghề cũng như cơ sở đào tạo là rất quan trọng. Nhưng với
tâm lý của các sĩ tử và phụ huynh cứ phải vào các trường Đại học tốp đầu hoặc ở
các trung tâm lớn là ưu tiên số một, còn đối với các trường Đại học ở các tỉnh
không phải là sự lựa chọn hàng đầu. Đây là những quan điểm sai lầm và chính
điều này đã làm cho thực trạng hiện nay sinh viên ra trường mà ngành nghề mình
đang theo học không có việc làm. Bởi vì, học sinh và phụ huynh các em không xác
định được những gì xã hội cần mà chỉ chạy theo quan điểm ở trung tâm lớn với
bất cứ ngành nghề nào có thể học được, hơn nữa chính các trường Đại học vùng
mới là các trường có mối quan hệ gần gũi với các doanh nghiệp nên họ biết doanh
nghiệp cần gì ở người lao động, bên cạnh đó họ có sự cam kết về đào tạo theo đơn
hàng của doanh nghiệp, họ có sự liên kết đào tạo để sinh viên khi còn đang học
cũng có thể tham gia vào quá trình thực tập làm quen với môi trường và kỹ thuật
thực tế của doanh nghiệp. Vì thế, các em học sinh phổ thông cần phải thấy được
những ưu thế ấy và lựa chọn được ngành mà xã hội thực sự cần cũng như nơi để
học là rất quan trọng.
Đối với những ngành đang có sự bão hòa về
nhu cầu lao động thì khi các em theo học là rất khó khăn khi ra trường. Các em
cần tìm hiểu các đại học khi ra trường dễ tìm việc làm vì nó
thích hợp với việc sớm hòa nhập với cuộc CMCN 4.0 như những ngành kỹ
thuật của trường Đại học Sao Đỏ đang đào tạo như: Cơ khí thông minh, Cơ điện
tử, Kỹ thuật điều khiển và tự động hóa, Điện tử kỹ thuật số, Tin học, CN May và
thời trang, CN Ô tô với mô hình liên kết với Toyota Việt Nam, CN Thực phẩm, CN
Hóa,… thì nhu cầu của xã hội là rất lớn, bên cạnh đó ưu thế như Đại học Sao Đỏ
đang có đó là sự liên kết với các doanh nghiệp, các tập đoàn hay các trường Đại
học của Hàn Quốc, Nhật Bản,… đã được khẳng định, được xã hội thừa nhận thông
qua chứng nhận về đảm bảo chất lượng cơ sở giáo dục đại học do trung tâm khảo
thí và đảm bảo chất lượng của Bộ Giáo Dục kiểm định năm 2017 và được các doanh
nghiệp cam kết ưu tiên tuyển dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp của trường.
3.
Định hướng nghề nghiệp thời đại 4.0 và những sai lầm của phụ huynh.
Thời đại 4.0 – Cơ hội hay thách thức?
Chúng ta đang sống trong thời đại mà sự
biến đổi của thế giới có thể chỉ cần tính bằng giây bởi những chi phối mạnh mẽ
của nền tảng công nghệ thông tin. Tại các quốc gia đang phát triển, trong đó có
Việt Nam, cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 được tin rằng sẽ mở ra nhiều cơ hội
lớn nhưng đồng thời kéo theo nó những rủi ro nhất định. Thị trường lao động
được dự báo sẽ có nhiều sự thay đổi khi công nghệ được ứng dụng rộng rãi vào
nhiều ngành nghề, tự động hoá thay thế lao động chân tay, robot thay thế con
người. Điều này đồng nghĩa trong tương lai không xa, nhiều công việc hiện tại sẽ
bị “xoá sổ” hoàn toàn, nhưng đi kèm theo đó là sự hình thành của nhiều ngành
nghề mới.
Dựa trên thực tế này, những nhóm ngành
liên quan đến công nghệ, kĩ sư, chế tạo robot được dự đoán sẽ trở nên dẫn đầu.
Tuy nhiên, bởi trí tuệ nhân tạo khác trí tuệ con người ở cảm xúc và sự sáng
tạo, các ngành nghề thời đại mới sẽ tiếp tục đòi hỏi cao sự linh hoạt thích
nghi với xu thế. Như vậy, cuộc Cách mạng 4.0 sẽ là cơ hội lớn cho những học
sinh, sinh viên biết theo đuổi ngành nghề phù hợp, đúng xu hướng và trọng điểm.
Câu
chuyện hướng nghiệp – khi những sai lầm xuất phát từ phụ huynh
Nhắc đến hai từ hướng nghiệp, chúng ta nên
hiểu đó là quá trình hai chiều. Bên cạnh việc giúp học sinh đi sâu vào khám phá
tính cách, năng lực, và sở thích bản thân, đó đồng thời là sự tìm hiểu về thế
giới công việc và các lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Mong muốn con thành đạt là
mong muốn chính đáng của bất kì bậc làm cha làm mẹ nào. Tuy nhiên, mong muốn
chính đáng ấy nhiều lúc lại chính là khởi nguồn của những quyết định cảm tính
và những áp đặt thiếu căn cứ.
Con cái viết ước mơ cho cha mẹ
Sinh thành và nuôi nấng, dù ít hay nhiều,
cha mẹ nào cũng có những kì vọng nhất định ở con cái. Thế nhưng, không ít những
bậc phụ huynh vì kì vọng ấy mà mong muốn con có thể trở thành người viết những ước
mơ cho cha mẹ. Những công việc còn dang dở khi trẻ, những thành công chưa thể
chạm tới, tất cả những điều ấy được gửi gắm vào thế hệ sau mà nhiều khi cha mẹ
quên rằng, chính con cũng có những ước mơ của riêng mình, và nhiều khi những
ước mơ ấy không trùng khít với ước mơ của cha mẹ.
Kinh nghiệm của người lớn không phải lúc nào
cũng đúng
Xuất phát từ mong muốn dành những điều tốt
nhất cho con, không ít những bậc phụ huynh muốn dựa vào những sai lầm và kinh
nghiệm của chính bản thân mình mà trực tiếp can dự, thay con quyết định mọi
chuyện trong việc lựa chọn ngành nghề. Kinh nghiệm của những người đi trước là
quý báu, tuy nhiên với sự phát triển không ngừng của thời đại, việc lựa chọn
dựa trên kinh nghiệm lại không phải một ý kiến hay. Thế giới tương lai sẽ khác
rất xa thế giới hiện tại, chưa bàn đến quá khứ. Rất nhiều lĩnh vực phụ huynh
biết trước đây sẽ bị biến đổi và thay thế bởi những ngành nghề, công việc mới.
Bởi vậy, đừng để kinh nghiệm và định kiến trở thành rào cản ngăn bước tiến của
con.
Ngành ổn định, ngành dễ xin việc, ngành kiếm
nhiều tiền,…
Những cụm từ trên là suy nghĩ phổ biến của
không ít các bậc phụ huynh và là những yếu tố được ưu tiên hàng đầu khi giúp
con cái định hướng ngành nghề. Thế nhưng, một công việc không mang lại cho con
nhiều cơ hội phát triển có phải tốt? Một công việc mà nhiều người theo đuổi
thực chất tăng cơ hội hay tăng cạnh tranh và rủi ro? Hơn nữa, với sự phát triển
nhanh chóng của thời đại, việc chăm chăm học những ngành “hot” của hiện tại
chưa chắc đã đảm bảo một tương lai xán lạn.
Hai chữ “khả năng” bị phớt lờ
Trái ngược với các yếu tố được đề cao ở
phía trên, “khả năng” là yếu tố thường bị phớt lờ trong quá trình hướng nghiệp.
Đây là một từ mang tính bao quát rất rộng, từ năng lực trí tuệ, năng lực đặc
thù của nghề, năng lực sức khoẻ của bản thân học sinh, cho đến cả năng lực tài
chính của gia đình. Nói đến giấc mơ, ai cũng muốn mơ lớn. Nhưng khi ước mơ ấy
liên quan đến ngành nghề, tương lai cả đời của con, cha mẹ nên thực tế cùng con
nhìn nhận những vấn đề trên, để quá trình học và làm không xảy ra tình trạng
“đứt gánh giữa đường”.
Tất cả những sai lầm trên, tựu chung lại
sẽ tạo rất nhiều áp lực cho các em học sinh từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường. Xa hơn, tương lai khi phải làm những công việc mình không thích hoặc không
giỏi sẽ giới hạn khả năng phát triển, tiến xa của các em; dẫn đến sự lãng phí
thời gian, công sức, tiền bạc khi nhảy sang một ngành nghề khác; hoặc thậm chí
là sự chán nản và thất nghiệp.
Hướng nghiệp sao cho đúng?
Lại nhắc sự phát triển thời đại, bây giờ
không còn là lúc chúng ta nên dựa vào những định kiến từ lâu đời hay những tri
thức đã cũ để giúp các em định hướng nghề nghiệp tương lai. Cần khẳng định
rằng, ngành nghề tương lai vẫn phải do chính các em quyết định dựa trên chính
thiên hướng, sở thích và đam mê bản thân. Thay vì chỉ được giáo dục kiến thức,
các em đồng thời cần những cơ hội để phát triển kĩ năng và tối đa những trải
nghiệm. Cái các em cần là một hành trang chứ không phải một đích đến. Nếu các
em được trang bị đầy đủ những kiến thức và kĩ năng cần thiết, tự đôi chân sẽ
dẫn các em đi đúng đường.
Thực tế mà nói, quá trình hướng nghiệp
không chỉ dành riêng cho các em học sinh, mà còn dành cho cả những bậc phụ
huynh bởi những khó khăn từ việc thiếu cập nhật sự phát triển nhanh chóng của thời
đại, thiếu hiểu biết về kiến thức hướng nghiệp, hay những quan điểm định kiến
cá nhân. Hiểu được những kì vọng, những yêu thương dành cho các em, và cả những
trở ngại các bậc phụ huynh phải trải qua, Chương trình Hướng nghiệp
GPA Career sẽ là một sự lựa chọn phù hợp giúp quá trình hướng
nghiệp trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn.
Chương trình được xây dựng trên những cơ
sở khoa học đã được kiểm chứng và ứng rộng rãi trên thế giới, đảm bảo giúp các
em học sinh và các bậc phụ huynh khám phá được thiên hướng của bản thân và nhóm
ngành nghề phù hợp, cùng với lộ trình để phát triển các kiến thức, kĩ năng và
tăng trải nghiệm về nhóm ngành nghề đó. Đặc biệt, phụ huynh và các em sẽ được
làm việc trực tiếp với những chuyên gia giàu kinh nghiệm để có thể hiểu rõ phân
tích và kết quả của bài đánh giá Hướng nghiệp, đồng thời tiếp tục nhận sự hỗ
trợ lâu dài sau quá trình tư vấn
4. Học sinh nên chọn nghề gì trong thời đại
4.0?
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
tác động mạnh đến việc làm của người lao động, không chỉ thay thế những công
việc nặng nhọc mà cả những công việc đòi hỏi chuyên môn cao như luật sư, các
nhà phân tích tài chính, bác sĩ, nhà báo, kế toán… cũng sẽ bị tự động hóa một
phần.
Vậy, thí sinh chọn nghề gì
trong tương lai? Ngày
27/11, tại Hà Nội, Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực - Bộ GD&ĐT
đã tổ chức buổi Tọa đàm: “Cung cấp thông tin dự báo thị trường lao động và tư
vấn hướng nghiệp phục vụ tuyển sinh đại học năm 2019”.
Nhiều ngành
nghề sẽ mất trong thời kỳ 4.0
Tại buổi tọa đàm ông Nguyễn Thế Hà, Phó Giám đốc, Trung tâm
Quốc gia dịch vụ việc làm, Bộ Lao động thương binh và Xã hội đã phân tích về
những tác động cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến thị trường lao động Việt Nam.
Theo ông Hà, cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0 được coi như điểm nhấn của Kỷ nguyên số và nó có tác
động mạnh mẽ đến các ngành và nghề trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, trong đó
có Việt Nam - một quốc gia có nguồn cung lao động khá dồi dào và ổn định
với hơn 55 triệu lao động.
Theo đó, CMCN 4.0
sẽ tác động đến số lượng, chất lượng việc làm thông qua sự thay thế sức lao
động bằng máy móc, rô-bốt, trí tuệ nhân tạo và ứng dụng công nghệ thông tin đối
với một số ngành, nghề đang diễn ra nhanh chóng thâm nhập nơi làm việc trên thị
trường lao động Việt Nam. Điều này cũng sẽ làm thay đổi bản chất của việc làm,
sẽ làm một số công việc biến mất nhưng đồng thời sẽ tạo ra nhiều công việc mới như
Uber hay Grab taxi.
Hay như với ứng dụng điện thoại di động cho phép theo dõi
thời tiết cho nông dân Đồng bằng sông Cửu Long; các bảng điện tử theo dõi việc
làm được thanh niên TP. Hồ Chí Minh phân tích...Với những công nghệ này có tiềm
năng giải phóng lao động Việt Nam khỏi những công việc có giá trị gia tăng
thấp, từ đó tạo điều kiện cho lao động tham gia vào những công việc ít nhàm
chán, có giá trị gia tăng cao hơn. Đồng nghĩa với việc làm tăng năng suất của
người lao động.
Thậm chí, không phải là những công việc nặng nhọc mà cả
những công việc đòi hỏi chuyên môn cao như luật sư, các nhà phân tích tài
chính, bác sĩ, nhà báo, kế toán…có thể được tự động hóa một phần hoặc hoàn
toàn.
Ông Hà cho rằng, nếu Việt Nam không có sự chuẩn bị tốt thì
CMCN 4.0 có thể sẽ dẫn đến mất việc làm ở một số ngành, nghề thâm dụng lao động
như dệt may, da giày, lắp ráp điện tử ... Điển hình như nguy cơ thay thế lao
động trong ngành dệt may, da giày ở Việt Nam.
Một trong những tác động quan trọng nữa của CMCN 4.0, theo
ông Hà là chất lượng nguồn nhân lực.
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, kỹ năng lao động cần thiết
trong kỷ nguyên công nghệ mới ngoài yêu cầu cứng về kỹ năng kỹ thuật (mức trung
bình và cao) bao gồm những kiến thức và kỹ năng chuyên biệt thuộc về CMKT nhằm
thực hiện công việc cụ thể thì cần phải có những kỹ năng làm việc mềm hay cốt
lỗi như: Khả năng tư duy sáng tạo và tính chủ động trong công việc, kỹ năng sử
dụng máy tính, internet, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng an
toàn và tuân thủ kỷ luật lao động, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quản lý
thời gian, kỹ năng tập trung.
Sinh viên
giỏi thất nghiệp do không có định hướng
Ông Nguyễn thế Hà
cho rằng, ngành giáo dục – đào tạo ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Cụ thể, trong
một thế giới hiện đại do công nghệ dẫn dắt, chính phủ của nhiều nước trên thế
giới, kể cả những nước có nền công nghệ tiên tiến nhất như Mỹ và Nhật, đã
có chính sách ưu tiên rõ rệt cho các ngành khoa học, công nghệ,
kỹ thuật và toán (Science, Technology, Engineering and Mathematics, viết tắt là
STEM). Kết quả là những sinh viên mới, đặc biệt là sinh viên
nước ngoài chuyển hướng mạnh sang học các ngành STEM để tìm kiếm cơ hội ở lại
làm việc ở Mỹ.
Còn ở Việt Nam không có những định hướng rõ nét, dẫn đến
tình trạng những sinh viên giỏi nhất thường lựa chọn các ngành kinh tế, ngoại
thương, tài chính, ngân hàng …, làm điểm chuẩn vào các trường đào tạo các
chuyên ngành này cao hơn hẳn so với vào các trường công nghệ và kỹ thuật, trong
đó có những trường đầu đàn truyền thống như Bách Khoa.… Bản thân số trường đào
tạo các ngành công nghệ và kỹ thuật cũng không nhiều.
"Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu
hụt nhân lực trong một số ngành công nghệ tăng trưởng nhanh trong thời đại số
hóa và tự động hóa, đặc biệt là ngành công nghệ thông tin. Báo cáo mới nhất về
ngành công nghệ thông tin (CNTT) của VietnamWorks cho thấy, trong 3 năm gần
đây, số lượng công việc của ngành này đã tăng trung bình 47%/năm, nhưng số
lượng nhân sự chỉ tăng ở mức 8%.
Sự lựa chọn “lạc hướng” của các thanh niên khi bước vào đại
học là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học
không có việc làm có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây” - ông Hà nhấn
mạnh.
Theo ông Hà, CMCN 4.0 sẽ tác động mạnh đến số lượng, chất
lượng hay bản chất của việc làm hiện tại và tương lai. Và hiện nay, một lý do
cơ bản là vì thiếu thông tin về cơ hội việc làm, thiếu thông tin về chất lượng
người lao động, thiếu thời gian mà hạn chế lựa chọn công việc, thiếu thu nhập
nên khó chuyển sang những công việc phù hợp hơn, hay một loạt những yếu tố khác
dẫn đến mất cân đối giữa cung cầu trên thị trường lao động. Do đó, để giải
quyết vấn đề trên, đó chính là công tác phân tích, dự báo thông tin thị trường
lao động.
Thí sinh
phải tự định hướng cho bản thân
Chia sẻ với các thí sinh trong việc chọn nghề trong năm
tới, TS. Trần Văn Tính, trường ĐH Giáo dục – ĐH Quốc gia Hà Nội cho rằng, thí
sinh cần xác định rõ được các năng lực và phẩm chất của của mình như sở thích,
khả năng, cá tính… để định hướng nghề nghiệp vì hoạt động nghề nghiệp sẽ theo
suốt cuộc đời. Bên cạnh đó, cần tìm hiểu được kiến thức về ngành học trong
trong các trường Đại học trong và ngoài nước để có thể lựa chọn hoặc điều chỉnh
việc lựa chọn nghề trong và sau quá trình học.
Để xác định được
mục tiêu nghề nghiệp cho mình, theo TS. Trần Văn Tính
, học sinh nên tham gia các hoạt động ngoại khoá, các hoạt
động xã hội để tạo động lực và lựa chọn nghề nghiệp, lựa chọn nghề nghiệp thích
hợp nhất.
TS Tính cho biết, có 3 yếu tố học sinh cần kết hợp để lựa
chọn nghề cho mình:
Thứ nhất, học sinh cần biết về đặc điểm tâm lý, năng
lực học tập và yếu tố sinh lý của cá nhân. Đây là yêu tố chủ quan nhưng có thể
quyết định đến việc thành công trong nghề nghiệp của cá nhân sau này.
Thứ hai, học sinh cần trả lời 7 câu hỏi: Có
nghề mới xuất hiện không, xu thế xã hội hiện tại đang phát triển nghề gì?, Nghề
nào phát triển tốt nhất, dễ xin việc nhất?, Nghề nào là nghề danh giá nhất?,
Nghề nào thu nhập cao nhất?, Học đại học có phải là con đường duy nhất để thành
công không?, Chọn một ngành học có phải là nghiệp của cả đời không?, Xã hội
phát triển cần người làm nghề như thế nào?
Học sinh cần biết nghề mình muốn chọn là gì và yêu cầu của
nghề đó là gì để bản thân còn có thể so sánh, thích ứng để phát triển theo
nghề.
Thứ ba, thí sinh phải biết, điều kiện gia đình,
truyền thống gia đình.
TS Hà cho rằng, gia đình là nơi hỗ trợ cho học sinh phát
triển nghề nghiệp, nếu có sự hỗ trợ tốt thì khả năng thành công trong nghề của
chúng ta càng ngày càng cao hơn.
III. Mạn bàn về Khởi nghiệp trong thời đại 4.0
1. Khởi nghiệp trong thời đại 4.0 đâu chỉ riêng
con đường đại học!
Hướng đi nào cho học trò phổ thông trong
thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 đang là vấn đề lớn thu hút sự quan tâm của
toàn xã hội.
Tại “Hội thảo khởi nghiệp trong thời đại
cách mạng công nghiệp 4.0” do Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí
Việt Nam phối hợp cùng Sở Giáo Dục và Đào tạo tỉnh Vĩnh Phúc, Trường Trung học
Phổ thông Bến Tre tổ chức.
Tại hội thảo lần này, các em học sinh được
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng thổi niềm đam mê vào thời đại mới, đầy thách thức nhưng
cũng đầy cơ hội.
Cũng như học sinh ở nhiều bậc học phổ
thông, học sinh Trường Trung học Phổ thông Bến Tre băn khoăn lo lắng về thách
thức trong thời đại 4.0 các em có bị thất nghiệp không?.
Trả lời những thắc mắc đó, Giáo sư Nguyễn
Lân Dũng quả quyết: “Chắc chắn tỉ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên nếu chúng ta buông
xuôi mặc cho số phận, chấp nhận làm thuê bằng sức lao động thì sẽ bị thất
nghiệp.
Sau này, sẽ không còn công nhân dệt may
nữa, không còn công nhân đóng giày da nữa và cũng sẽ không còn công nhân SAM
SUNG chuyên lắp ráp điện tử một cách thô sơ nữa.
Các em phải hiểu rằng, giá trị của một sản
phẩm chỉ còn 30% từ nguyên liệu còn lại 70% là trí tuệ mang lại”.
Ngoài việc động viên các em học sinh học
ngoại ngữ để lĩnh hội tri thức, học để sáng chế ra các phần mền như uber, grab
để thu về ngoại tệ…
Học để trở thành người tự do, thành công
dân toàn cầu, thế hệ trẻ Việt Nam tự tin hội nhập với thế giới giáo sư Nguyễn
Lân Dũng còn động viên các em học sinh khởi nghiệp ngay trên chính quê hương
mình.
“Các em phải biết theo đuổi đam mê, hoài
bão bằng kế hoạch cụ thể để thực hiện hóa ước mơ của mình.
Ngay từ bây giờ, các em phải định hướng rõ
ràng cho tương lai phía trước” - Giáo sư Nguyễn Lân Dũng nhấn mạnh.
Thấu hiểu được những băn khoăn về hướng đi
chọn nghề trong tương lai, đặc biệt, đa số học sinh phổ thông không phải ai
cũng đủ năng lực để học đại học nên các em thực sự hoang mang khi tìm đường đi
cho bản thân mình nên Giáo sư, nhà giáo Nguyễn Lân Dũng rất đồng cảm và chia sẻ
với các em.
Bằng những câu chuyện sinh động về những
tấm gương vượt khó vươn lên làm giàu, những con người xuất thân từ chân đất,
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng đã tiếp lửa cho các em học sinh Trường Trung học phổ
thông Bến Tre những gương sáng để bước vào đời.
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng kể: “Tôi đến Quảng
Châu – Trung Quốc thăm gia đình nông dân trồng nấm, rất ngạc nhiên khi hai
người trồng nấm rơm mà buổi sáng có mấy ô tô tải đến thu mua.
Vì sao chỉ hai người nông dân nhưng có thể
sản xuất được lượng nấm lớn đến vậy?
Kinh nghiệm này tôi đã thu được từ chuyến
đi đó mà muốn các em học lắm. Đó là, chúng ta cần phải đổi mới công nghệ trồng
nấm rơm.
Hai người nông dân đó không trồng nấm rơm
như ở nước ta hiện nay mà họ trồng nấm rơm theo cách như ta trồng nấm mỡ.
Tôi đã viết cuốn công nghệ trồng nấm trong
đó có quy trình trồng nấm mỡ.
Em nào muốn trồng chỉ cần đọc sách theo
quy trình trồng nấm mỡ và áp dụng để trồng nấm rơm.
Điểm khác biết nấm mỡ ủ đất, nấm rơm không
ủ đất thôi”.
Vị chuyên gia này nhấn mạnh thêm: “Ví dụ
đó để các em hiểu được, nhà mình có 3 sào ruộng, thu được bao nhiêu tiền và nếu
mua gạo về ăn sẽ mất bao nhiêu tiền?
Trong thời đại 4.0 các em phải nghĩ được,
xem mảnh đất nhà mình trồng gì phải xuất khẩu được.
Vừa được nhiều tiền lại vừa đem lại ngoại
tệ cho đất nước. Đây là ví dụ đơn giản việc các em có thể làm trong thời đại
4.0”.
Rồi Giáo sư Nguyễn Lân Dũng kể câu chuyện
về nông dân Trịnh Xuân Mười (Mười Bơ). Anh đã giúp nhiều người dân thoát nghèo
từ mô hình trồng bơ xen cà phê.
Xuất phát từ đứa trẻ học hết lớp sáu,
trong gia gia đình đông con, nghèo khó ở quê Diễn Châu - Nghệ An.
Để tìm đường thoát nghèo cho bản thân và
gia đình, anh Mười đã rời bỏ quê hương để đến vùng đất Tây Nguyên lao động kiếm
sống.
Bao năm lăn lộn, bươn chải trên vùng đất
cao nguyên đầy nắng và gió, như một cái duyên trời, anh Mười đã bén “duyên” với
cây bơ.
Từ một người gom hàng cho lái buôn, anh
Mười phát hiện ra giá trị thương phẩm của cây bơ và anh có một sáng kiến trồng
cây bơ làm bóng mát cho cây cà phê và ước mơ một ngày nào đó cây bơ sẽ phủ kín
Tây Nguyên.
Để thực hiện sáng kiến của mình, với kinh
nghiệm nhiều năm đi buôn bơ, anh Mười biết rõ ngọn ngành từng cây bơ ngon, cho
trái nhiều tại vùng đất Tây Nguyên.
Từ đó, anh Mười đến xin chủ nhà cho chiết
những cành bơ có quả ngon đem về ươm mầm để bán.
Nhiều người nghe anh Mười, đã trồng bơ làm
cây che bóng mát cho cây cà phê. Cũng chính vì nổi tiếng nhờ bơ mà mọi người
gọi anh với biệt danh là Mười “Bơ”.
Chưa dừng lại, anh Mười “Bơ” có khát khao
xuất khẩu bơ ra nước ngoài. Tuy nhiên, điểm hạn chế của bơ Việt Nam thời gian
chín rất nhanh, không bảo quan được lâu nên không thể đưa đi xuất khẩu xa.
Với ước mơ đó, Mười “Bơ” được Giáo sư
Nguyễn Lân Dũng dẫn đường sang Úc để lấy giống bơ Úc mang về.
Đặc điểm của giống bơ Úc không chỉ ngon mà
còn bảo quản dễ, để lâu ngày. Hiện nay, anh Mười “Bơ” đã tiến hành đưa giống bơ
Úc vào trồng trên vùng đất Tây Nguyên và tỉnh Nghệ An.
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng tiết lộ mức thu
nhập của mười bơ hiện nay gần 10 tỉ đồng trên năm.
Trong những năm tới, chắc chắn thu nhập sẽ
được nhân lên vì bơ của Mười “Bơ” sẽ xuất khẩu sang thị trường nhiều nước.
Câu chuyện về anh nông dân Mười “Bơ” trình
độ thấp, nhưng có ý chí, vượt qua khó khăn để đem cây bơ quý trồng trên vùng
đất Tây Nguyên là một thông điệp cho các bạn học sinh phổ thông rằng, không có
gì khó, chỉ sợ lòng không bền.
Thời đại 4.0 vừa mở ra nhiều thử thách
nhưng cũng nhiều cơ hội, nếu chúng ta biết vươn lên khó khăn, nghị lực thì
trình độ phổ thông cũng có thể làm giàu”.
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng cho rằng: “Mười
“Bơ” chỉ là một trong hàng trăm tấm gương làm giàu từ làng.
Chương trình sinh ra từ làng của đài
Truyền hình Việt Nam đã cung cấp cho chúng ta bao nhiêu tấm gương làm giàu.
Đó là hình mẫu để các em học tập khởi
nghiệp trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0”.
Thứ
trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng nhấn mạnh: “Chính phủ Việt Nam hết sức quan
tâm, đã và đang chỉ đạo doanh nghiệp tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”.
Tại buổi tọa đàm về các xu hướng công nghệ và vai trò của
người trẻ sáng tạo trong cuộc cách mạng 4.0 diễn ra tại Hà Nội, theo các chuyên
gia, cuộc cách mạng thứ tư giới thiệu hệ thống thực – ảo xóa mờ ranh giới giữa
con người và máy móc, nâng cao đáng kể hiệu quả sản xuất và cho phép tạo ra sản
phẩm riêng biệt cho đại chúng.
Công nghệ 4.0 đang phục vụ cuộc sống
Lấy ví dụ về Ví điện tử MOMO, ông Nguyễn Bá Diệp – Phó
chủ tịch HĐQT Công ty Ví điện tử MOMO chia sẻ: “Thông qua sự phát triển của
công nghệ, đặc biệt là những công nghệ gắn liền với Internet, chúng tôi đã có
khả năng mang dịch vụ tài chính mới (tài chính điện tử) đến với người dân Việt
Nam, giúp người dân tiếp cận với dịch vụ đơn giản nhất từ thanh toán thông
thường cho tới thanh toán cho vay tài chính, thanh toán mua sắm thương mại điện
tử… Hiện MOMO có khoảng 7 triệu khách hàng, trong đó có 4 triệu khách hàng trên
ví điện tử và 3 triệu khách hàng được phục vụ tại quầy”.
Về phía Tổ hợp giáo dục trực tuyến TOPICA, ông Phạm Minh
Tuấn – Chủ tịch sáng lập Tổ hợp giáo dục trực tuyến TOPICA cho biết TOPICA đang
đào tạo 3 mảng chính bao gồm: Tiếng Anh trực tuyến, các khóa học ngắn hạn và
các khóa cử nhân trực tuyến chất lượng cao.
Theo ông Tuấn, trong quá trình làm việc, các nước trong
khu vực đều có chung sự trăn trở khi bối cảnh 4.0 sẽ tước đi 47% cơ hội việc
làm trong vòng 25 năm tới như công nhân may, luật sư… dần dần sẽ bị các robot,
thuật toán thay thế. Ở góc độ làm đào tạo, TOPICA rất mong muốn có thể giúp
được những người có nhu cầu thay đổi công việc cũng như giúp các bạn trẻ nắm
bắt cơ hội 4.0 sớm hơn.
Nắm bắt xu thế của thế giới, TOPICA cũng đang tiêp cận và
thực hiện việc sản xuất ra hàng chục nghìn khóa học khác nhau và áp dụng công
nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) giúp người dùng tìm ra môn học và lộ trình học phù
hợp; áp dụng công nghệ 3D, thực tế ảo vào trong đào tạo…
Tuy nhiên, các diễn giả cũng cho rằng để áp dụng thành
quả của công nghiệp 4.0, bản thân doanh nghiệp cũng phải có những thay đổi cốt
lõi và bắt buộc phải có quy trình quản lý bởi cốt lõi của cuộc cách mạng này là
làm đơn giản hóa nhu cầu của con người và được đáp ứng mọi lúc, mọi nơi.
Sợ trở thành xu hướng của người trẻ
Nhìn lại chặng đường khởi nghiệp của mình, anh Đỗ Đăng
Dương – Giám đốc kinh doanh Công ty cổ phần Lumi Việt Nam kể lại: “Tôi cùng một
vài người bạn bắt đầu khởi nghiệp với mô hình nhà thông minh bởi sự ảnh hưởng
của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đặc biệt là IoT (Internet vạn vật) với
những khó khăn liên quan tới con người, tài chính, cạnh tranh với các đối tác
nước ngoài…
Trải qua 5 năm khởi nghiệp với mong muốn đưa công nghệ
nhà thông minh của Việt Nam ra thế giới, hiện Lumi đã có hơn 56 đại lý trên
toàn quốc và sản phẩm của Lumi cũng chính thức được ra mắt tại các thị trường
như Ấn Độ, Úc… “Ở thời điểm hiện tại, các bạn trẻ đang được hỗ trợ rất nhiều về
công nghệ, cơ chế, giúp các bạn trẻ khởi nghiệp thành công trong lĩnh vực IoT”,
anh Dương nhấn mạnh.
Tuy nhiên, Giám đốc kinh doanh Công ty cổ phần Lumi Việt
Nam lại lo sợ khi các công nghệ này rất dễ trở thành xu hướng của các bạn
trẻ dẫn đến việc giới trẻ khởi nghiệp mà không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và thất
bại là điều không tránh khỏi.
Giải thích điều này, anh Dương cho biết các bạn trẻ Việt
Nam còn có khá nhiều điểm yếu. Với những bạn đi du học trở về, dù mặt bằng kiến
thức về nền tảng kỹ năng rất tốt nhưng khi về Việt Nam, bộ phận các bạn
trẻ này bộc lộ điểm yếu khi không hiểu thị trường Việt Nam và đôi khi đứng ở vị
trí hơi cao so với nhu cầu của doanh nghiệp, tạo ra sự chênh lệch về mặt cung –
cầu. Đối với các bạn trẻ học tập trong nước lại không có được tính kỷ luật
và tinh thần làm việc có quy trình.
Tuy nhiên, các diễn giả đều cho rằng cơ hội của Việt Nam
trong cuộc cách mạng này là rất lớn khi chúng ta có nền tảng về hạ tầng viễn
thông và CNTT giúp giới trẻ thoải mái tìm hiểu thông tin. So với 3 cuộc cách
mạng trước, chúng ta không đi sau và trong cuộc cách mạng 4.0, chúng ta có cơ
hội để đi cùng với các nước phát triển.
Về phía Bộ KH&CN, Thứ trưởng Trần Văn Tùng nhấn mạnh:
“Chính phủ Việt Nam hết sức quan tâm, đã và đang chỉ đạo doanh nghiệp tiếp cận
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Tháng 7.2017, Thủ tướng đã ban hành chỉ thị số
16 về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng 4.0 để Việt Nam đuổi
kịp, đi cùng và sử dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng 4.0 tại Việt
Nam”.
Bộ KH&CN là cơ quan đầu mối triển khai và tiếp cận
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam; vì vậy, Thứ trưởng khẳng định Bộ
KH&CN sẽ đi cùng, hỗ trợ, tạo điều kiện trong các hoạt động, phát triển nền
công nghiệp này cũng như các hoạt động về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt
Nam.
Hiện Bộ KH&CN có rất nhiều chương trình hỗ trợ các
doanh nghiệp, các bạn trẻ khởi nghiệp trong thời đại công nghệ số như Chương
trình Khởi nghiệp sáng tạo theo Quyết định 844 của Thủ tướng Chính phủ, Chương
trình Đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình phát triển công nghệ cao, Chương
trình phát triển tài sản trí tuệ…
KẾT LUẬN
Trong những
ngày gần đây, người đứng đầu chính phủ là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc luôn đề cập
đến các Bộ Ngành đều phải tiến công vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Mà muốn thực hiện được cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 này, điều quan trọng đầu tiên là con người. Mà con người thì trách
nhiệm giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các trường phổ thông, đại học hiện nay
cơ bản giáo viên lên lớp với viên phấn và bảng đen, có được một ít tiết dạy bằng CNTT. Như vậy, ngành giáo dục hiện nay đang chỉ ở
cuộc cách mạng công nghiệp 2.0, cho nên công việc cấp bách của ngành giáo dục
là phải chuyển từ 2.0 sang 3.0. Để có cuộc
cách mạng công nghiệp 3.0 này, không chỉ có công việc biên soạn lại sách giáo
khoa giấy như hiện nay mà điều cần thiết là phải đưa CNTT vào từng lớp học. Trường
Quang Trung đã làm việc này suốt 10 năm. Mà muốn đưa CNTT vào từng lớp học, nhà
nước phải trang bị 100% máy tính, máy chiếu hay tivi có màn ảnh rộng cho tất cả
các phòng học. Để có điều này Bộ Giáo dục và Đào tạo phải tính toán về tài
chính để ban hành chủ trương CNTT đến từng lớp học. Để giảm kinh phí mua các
trang thiết bị này, đề nghị Bộ Giáo dục Đào tạo tăng cường chủ trương xã hội
hóa: các trường ngoài công lập tự lo kinh phí, các trường công lập ở các thành
phố lớn và các tỉnh phụ huynh sẽ góp tiền để mua các trang thiết bị về CNTT.
Nhà nước chỉ xuất kinh phí cho các vùng khó khăn, miền núi hải đảo hay các
tỉnh còn khó khăn. Điều quan trọng nhất
là Bộ Giáo dục Đào tạo tập huấn cho tất cả giáo viên biết soạn và dạy giáo án
điện tử trên lớp bằng trình chiếu powerpoint và tốt nhất là bằng bài giảng điện
tử e - Learning. Muốn thế , Bộ Giáo dục Đào tạo phải số hóa 33 bộ sách giáo
khoa giấy hiện hành thành bộ sách giáo khoa điện tử e - Learning và giáo án điện
tử e - Learning. Với bộ sách giáo khoa giấy hiện hành, trường THPT Quang Trung
đã làm được việc này. Trong thời gian đến, nếu có bộ sách giáo khoa giấy mới,
thì Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức để số hóa bộ sách giáo khoa mới này
thành bộ sách giáo khoa điện tử để cho học sinh học và bộ sách giáo án điện tử
để giáo viên soạn và dạy trên lớp. Khi có bộ sách giáo khoa mới bậc THPT, trường
Quang Trung cũng có thể tổ chức số hóa bộ sách giáo khoa mới này để có được bộ
sách giáo khoa điện tử mới và bộ giáo án điện tử mới bậc THPT. Nếu có được điều
này, thì ngành giáo dục đã biến cuộc cách mạng công nghiệp 2.0 hiện nay thành
cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 để ngành giáo dục tạo ra những con người mới có
năng lực và phẩm chất tiến công vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0./.
MỤC LỤC
Nội dung
|
Trang
|
Phần thứ nhất:
Hiện
đại hóa giáo dục bằng cuộc cách mạng 3.0
|
|
I. Đặt vấn đề
|
2
|
II. Các biện pháp nâng cao chất lượng bằng CNTT
|
4
|
III. Từ chủ trương đưa CNTT vào trường, trường Quang
Trung đã đưa CNTT vào từng lớp học
|
6
|
Phần thứ hai:
Việc hiện đại hóa của trường THPT Quang
Trung làm đòn bẩy để ngành giáo dục tiến
công vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
|
|
I. Thế nào là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
|
14
|
II. Tại sao trường Quang Trung trong 10 năm qua đã số hóa được 33 bộ sách
giáo khoa giấy thành 33 bộ sách giáo khoa điện tử
|
|
1. Các lý do
|
16
|
2. Định hướng nghề nghiệp cho học sinh
|
19
|
3. Định hướng nghề nghiệp và sai lầm của phụ huynh
|
21
|
4. Học sinh chọn nghề gì trong cuộc cách mạng công nghiệp
4.0
|
23
|
III. Mạn bàn về khởi nghiệp trong cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0
|
|
1. Khởi nghiệp đâu chỉ riêng con đường đại học
|
26
|
2. Khởi nghiệp cho học sinh trẻ có trình độ cao
|
29
|
Kết luận
|
31
|
|