Ngày 28-03-2024 14:54:52
 


Mọi chi tiết xin liên hệ với trường chúng tôi theo mẫu dưới :
Họ tên
Nội dung
 

Lượt truy cập : 6651230
Số người online: 16
 
 
 
 
GIỚI THIỆU MỘT MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ CỦATRƯỜNG THPT QUANG TRUNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ĐÃ THỰC HIỆN TRÊN 10 NĂM QUA.
 
Chuyển đổi số là một vấn đề mang tính thời đại trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra. Thế nhưng tại sao giáo dục Việt Nam ta khi giáo viên lên lớp vẫn chỉ sử dụng viên phấn-bảng đen, thậm chí vẫn đọc chép

 

GIỚI THIỆU MỘT MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ

CỦATRƯỜNG THPT QUANG TRUNG TẠI THÀNH PHỐ

 ĐÀ NẴNG ĐÃ THỰC HIỆN TRÊN 10 NĂM QUA.

*******************************************

 

       Chuyển đổi số là một vấn đề mang tính thời đại trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra. Thế nhưng tại sao giáo dục Việt Nam ta khi giáo viên lên lớp vẫn chỉ sử dụng viên phấn-bảng đen, thậm chí vẫn đọc chép?

        Qua bao nhiêu đời bộ trưởng giáo dục cũng chưa “bức phá” được cái hàng rào cũ kỷ lạc hậu bao đời này. Năm học 2021-2022,  Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn, Chủ tịch Ủy ban giáo dục và phát triển nhân lực cho biết: Ngành Giáo dục xác định ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số là một trong những khâu có tính đột phá, hướng đến tạo ra những thay đổi quan trọng trong giáo dục và đây là công việc rất khó, không phải một sớm một chiều có thể thực hiện được, song cần phải bắt đầu ngay và phải được làm thường xuyên, với hy vọng 5-10 năm sau công cuộc chuyển đổi số của ngành sẽ đạt kết quả.

        Quá khó, nên nhiều đời bộ trưởng đã không làm được. Để thực hiện được chuyển đổi số trong giáo dục, tình hình hiện nay phải cần:

1-    Chuyển đổi số trong quản lý: điều này ngành giáo dục đang làm được;

2-    Chuyển đổi số trong dạy và học: điều này ngành giáo dục chưa làm được, mà phải làm thường xuyên từ 5 đến 10 năm!

         Điều này, chính Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cũng đã công nhận là khó. Đó là phải tổ chức dạy học bằng CNTT trên lớp, và phải có quy định bắt buộc giáo viên phải dạy được 100% trên lớp bằng CNTT, phối hợp dạy bằng miệng với dạy bằng máy tính một cách nhuần nhuyễn, với một phần mềm hiện đại có giá trị để hấp dẫn học sinh, để học sinh tiếp thu nhanh, phát huy được tính sáng tạo, tính tự lập bằng cách biết tự học ở nhà mà không cần đi học thêm. Có thế thì ngành giáo dục, là một ngành quan trọng nhất, mới có thể “dìu dắt” đất nước thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra một cách vũ bảo trên toàn thế giới. Phải chăng để đất nước tiến lên, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng nước ta thường có câu: “Ai làm không được thì đứng ra ngoài để người làm được vào làm?”

          Tại  sao ngành giáo dục trong nhiều n ăm nay cứ lay hoay “đổi mới căn bản và toàn diện” là cứ viết lại SKG giấy, như thế thử hỏi khi nào ngành giáo dục thực hiện được CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC ?

 

          Muốn thế, trước hết Bộ GD&ĐT phải xây dựng được một bộ SGK điện tử cho các cấp học, cho tất cả các môn học. Về bộ SGK giấy hiện hành này, qua nhiều lần cải cách giáo dục, nhiều lần chỉnh lý, chúng ta đã có một bộ SGK giấy tương đổi hoàn chỉnh. Không cần thiết phải thay đổi như trong nhiều năm qua ngành giáo dục viết lại bộ sách giáo khoa giấy này với bao nhiêu công sức và tiền của, chỉ cần bỏ đi các nội dung không cần thiết đã lặp lại từ các lớp dưới, thêm một số kiến thức hiện đại, nhưng điều cần thiết trước hết để thực hiện được chuyển đổi số trong giáo dục là phải có bộ SGK điện tử cho học sinh tự học ở nhà và sử dụng để học trên lớp và bộ Giáo án điện tử để giáo viên dạy học trên lớp bằng CNTT.

          Còn về việc trang bị các thiết bị điện tử trên lớp cũng không phải là vấn đề khó. Từ trước đến nay, chúng ta tự làm khó chúng ta, tự đặt ra sự bao cấp trong giáo dục như: Một trường học nào đó phụ huynh tự nguyện góp tiền để mua ti vi cho con em họ học bằng CNTT thì nhà nước ta phê bình, cảnh cáo, kỷ luật, báo chí ăn theo phê phán. Chúng ta chỉ cần có một chủ trương xã hội hóa giáo dục, cho phép và khuyến khích phụ huynh trang bị các thiết bị học tập cho lớp con họ đang học, cho trường để cho chính con em họ được học tập bằng CNTT. Riêng các địa bàn rất khó khăn thì ngân sách nhà nước sẽ trang bị. Tại sao các trường tư thục hầu hết thực hiện được, không cần ngân sách nhà nước, mà tại sao các trường công lập đã được hưởng quá nhiều ưu đải lại không làm được? Cái cơ thế thời bao cấp đã hại chúng ta chăn

 

          Bộ trưởng thì nói khó, phải cần nỗ lực từ 5 đến 10 năm để thực hiện cho được chuyển đổi số trong giáo dục. Thế nhưng trường THPT Quang Trung từ hơn 10 năm qua đã thực hiện được mà ngành giáo dục không quan tâm, vì sao? Có phải đó là một trường tư thục chăng?

         Để thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục. trường Quang Trung thực hiện 3 nội dung: Chuyển đổi số trong quản lý; quan trọng nhất là chuyển đổi số trong dạy và học; và để thực hiện đươc chuyển đổi số trong dạy và học, trường Quang Trung phải trang bị đầy đủ các thiết bị về CNTT.

 

   Trước khi trình bày công trình Chuyển đổi số trong giáo dục thuộc cấp học trung học phổ thông của trường THPT Quang Trung, chúng tôi xin sơ lược: Thế nào là Chuyển đổi số, thế nào là Chuyển đổi số trong giáo dục?

 

I/ SƠ LƯỢC VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ:

 

               Chuyển đổi số là gì?

             - Tiếng Anh là Digital Transformation là sự tích hợp các công nghệ Kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của doanh nghiệp, tận dụng các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của doanh nghiệp đó, cũng như tăng tôc các hoạt động kinh doanh. Chuyển đổi số cũng là sự thay đổi về văn hóa của các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi, thử nghiệm mới và thoải mái chấp nhận các thất bại.

              - Microsoft lại định nghĩa chuyển đổi số là việc tư duy lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới.

             -  Còn theo quan điểm của FPT, chuyển đổi số trong tổ chức, doanh nghiệp là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới như Dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật ( IoT), Điện toán đám mây (Cloud),… thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty.

              Do tiếp cận với các giác độ khác nhau nên cách diễn đạt của các định nghĩa trên không giống nhau. Nhưng về nội hàm, tất cả các định nghĩa trên đều có điểm chung, đó là chuyển các hoạt động của chúng ta từ thế giới thực sang thế giới ảo trên môi trường mạng.

 

chuyen-doi-so-giao-duc

 

            II. CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC VIỆT NAM:

 

1.     Chuyển đổi số trong giáo dục (Digital Transformation in Education):

 

          1.1 Cơ sở pháp lý: “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” được phê duyệt tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3.6.2020 của Thủ tướng Chính phủ như sau:

“Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa. 100% các cơ sở giáo dục triển khai công tác dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép học sinh, sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi đến lớp học”.

              1.2 Tiến hành đồng thời 2 nội dung: Như vậy việc chuyển đổi số trong Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tập trung vào hai nội dung chính:

                  + Chuyển đổi số trong quản lý;

                  + Chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá.

 

     Chuyển đổi số trong quản lý là số hóa thông tin quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu lớn liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các công nghệ 4.0 (AI, blockchain, phân tích dữ liệu, ..) để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ các cấp lãnh đạo, quản lý ra quyết định trong lãnh đạo, điều hành.

          Chuyển đổi số trong dạy, học và kiểm tra, đánh giá là số hóa học liệu (sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng e-Learning, Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến…; chuyển đổi toàn bộ cách thức, phương pháp giảng dạy, kỹ thuật quản lý lớp học, tương tác với người học sang không gian số, khai thác công nghệ thông tin để tổ chức giảng dạy thành công.

 

              1.3   Cần gì để “Chuyển đổi số trong giáo dục”?

Chuyển đổi số đòi hỏi hạ tầng công nghệ mới, trang thiết bị mới cho cả người học, người trực tiếp giảng dạy, cơ sở giáo dục và cơ quan quản lý. Đi kèm thiết bị phần cứng là các ứng dụng phần mềm, các nền tảng (platform) để toàn bộ mọi hoạt động giáo dục và quản lý của các cấp diễn ra trên đó.

Nếu như ứng dụng CNTT vào giáo dục chủ yếu đề cập đến những chương trì phần mềm riêng lẻ, tách biệt, chuyển đổi số yêu cầu tất cả những thứ riêng lẻ này phải tương thích và kết nối với nhau, tích hợp trên cùng một nền tảng số.

Nền tảng số này cho phép các hoạt động giảng dạy, quản lý, học tập, kiểm tra, đánh giá, thi cử, quản lý người học và việc giảng dạy, cũng như toàn bộ việc tương tác giữa người học với giáo viên và nhà trường cùng diễn ra.

Đồng thời chuyển đổi số đòi hỏi tư duy và năng lực quản lý của lãnh đạo ngành giáo dục cũng như lãnh đạo nhà trường phải thay đổi.

Cuối cùng là văn hóa giáo dục số, gồm các vấn đề về thái độ học tập, hiểu biết về đạo đức học thuật, tính tự giác, ý thức về học tập suốt đời.

             Thực trạng chuyển đổi số trong giáo dục tại Việt Nam?

Sự bùng nổ của công nghệ đang tạo ra nhiều phương thức giáo dục mới, thông minh hơn, hiệu quả hơn, tiết kiệm nhiều chi phí hơn. Đến nay, xu hướng chuyển đổi số trong giáo dục đã tác động sâu sắc đến con người.

Hãy cùng Chuyendoiso chúng tôi, khám phá cách chuyển đổi số thay đổi phương thức giáo dục của Việt Nam hiện nay thế nào nhé!

 

                 1.4  Các phần trong Chuyển đổi số trong giáo dục:

      Chuyển đổi số ngành giáo dục, nghĩa là việc áp dụng công nghệ, dựa vào mục đích, cơ cấu của doanh nghiệp giáo dục. Hiện tại, được ứng dụng dưới 3 hình thức chính:

     PHÀN I: Ứng dụng công nghệ trong quản lý: Công cụ vận hành, quản lý.

      PHẦN II; Ứng dụng công nghệ trong phương pháp giảng dạy: Lớp học thông minh, lập trình…vào việc giảng dạy.

      PHẦN III: Ứng dụng công nghệ trong lớp học: Công cụ giảng dạy, cơ sở vật chất.

 

2. Thực trạng chuyển đổi số trong ngành giáo dục tại Việt Nam:

 

           1)  Ứng dụng chuyển đổi số trong phương pháp giảng dạy:

Xu hướng công nghệ số không gian giảng dạy, học tập cần được nhân rộng, các thiết bị thông minh được lắp đặt tại các lớp học như: đầu ghi hình, bàn học thông minh, bảng điện tử thông minh, thiết bị họp trực tuyến,…đã được đưa vào sử dụng.

Nhiều doanh nghiệp giáo dục cũng tạo điều kiện để sinh viên tham gia trải nghiệm, tiếp cận công nghệ cao, thậm chí tham gia các chuyến tham quan thực tế ảo.

Những ứng dụng chuyện đổi số giáo dục trong phương pháp dạy học:

  • Khóa học trực tuyến e – Learning;
  • Phương pháp học tập thông qua các dự án;
  • Phương pháp học bằng ứng dụng thực tế ảo;
  • Các lớp học về Lập trình, STEM, STEAM, Tiếng Anh công nghệ.

 

2) Ứng dụng công nghệ trong quản lý:

Hiện nay, phần mềm quản lý trường học đã được nhiều đơn vị công lập áp dụng. Những doanh nghiệp giáo dục tư nhân có sử dụng các phần mềm để quản lý, dần dần được số hóa bằng những phần mềm quản lý tài sản, phần mềm quản lý trường học chuyên biệt…

 

 

 

Ứng dụng công nghệ này, giúp người học dễ dàng trong tra cứu thông tin khi đến thư viện, hay giáo viên, quản lý có thể quản lý được bảng điểm học sinh, thời khóa biểu, hay các thông tin khác.

         3) Tầm quan trọng của chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo thời covid-19

Trong những năm gần đây ngành giáo dục đã tích cực áp dụng CNTT vào trong hoạt động giảng dạy. Ngành giáo dục đã phát triển mô hình giảng dạy học trực tuyến/ online, để người học có thể học mọi nơi, mọi lúc, chủ động trong việc học tập hiệu quả hơn.

Trong cái đại dịch covid-19 xảy ra trên toàn thế giới khiến cho mọi lĩnh vực công tác, kinh tế ngành nghề bị thiệt hại không nhỏ, và ngành giáo dục cũng không là ngoại lệ. Để đảm bảo an toàn cho học sinh, sinh viên cũng như thực hiện giãn cách xã hội thì các trường học đã cho học sinh, sinh viên nghỉ học cách ly tại nhà. Nhưng  để đảm bảo kiến thức thì ngành giáo dục đã áp dụng việc học online/ trực tuyến vào trong giảng dạy. Nhưng việc áp dụng học online lại gặp rất nhiều khó khăn về công nghệ, kiểm soát, đánh giá năng lực người học…

Việc áp dụng công nghệ vào trong phương pháp giảng dạy khiến cho nhiều trường vẫn chưa quen với phương pháp này, hay cơ sở vật chất điều kiện kinh tế của một số trường khiến cho việc học theo phương pháp này không mấy hiệu quả.

Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ như hiện nay, cùng với việc ngành giáo dục đang đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ nghệ chuyển đổi số trong giảng dạy, thì mọi khó khăn sẽ được giải quyết sớm nhất trong tương lai. Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, ứng dụng di động đã tạo điều kiện cho chuyển đổi số trong giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn, tạo cơ hội cho mọi người có thể học và tương tác ở mọi lúc, mọi nơi.

Nền tảng cơ bản của chuyển đổi số trong giáo dục dựa vào cơ sở vật chất, hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu số chuyên ngành, đường lối, chủ trương chính sách và đội ngũ lãnh đạo, cán bộ viên chức, giảng viên, giáo viên, người học …

 

               4) Chuyển đổi số trong giáo dục cần những điều kiện gì?

Ví dụ như áp dụng học trực tuyến đòi hỏi phải có mạng internet, máy móc, phần mềm học thì những vấn đề này khá dễ dàng để thực hiện được. Cái khó ở đây trong chuyển đối số giáo dục là thay đổi tư duy và thói quen tại các cơ sở đào tạo.

Giáo dục là một trong các lĩnh vực được ưu tiên đầu tư trong chương trình chuyển đổi số quốc giá. Chuyển đổi số trong ngành giáo dục đóng vai trò rất quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo học sinh, sinh viên, giúp Việt Nam trở thành những quốc gia hàng đầu về chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo.

Chuyển đổi số trong ngành giáo dục cần phải có nền tảng công nghệ quốc gia thống nhất để tất cả mọi người trong ngành giáo dục đều có thể tham gia. Tài nguyên số, học thuật cũng cần phải thực hiện trên công nghệ thống nhất để mọi công việc học tập, giảng dạy hay học trực tuyến trong đại dịch covid-19 đem lại hiệu quả tốt nhất.

Chuyển đổi số trong giáo dục muốn phát triển tốt thì yếu tố nhân lực cần được ưu tiên nhất. Các trường đại học nên mở lớp đào tạo đội ngũ hỗ trợ kỹ thuật để thích ứng cho cả nước, mở những hệ đào tạo tài năng nhất.

 

         5) Lợi ích chuyển đổi số trong ngành giáo dục tại Việt Nam

a)   Chủ động trong việc học tập

Công nghệ số đã mở ra không gian học tập thoải mái qua mạng Internet, bạn có thể học mọi lúc, mọi nơi. Giờ đây, người học có thể tiếp thu kiến thức dễ dàng, thuận tiện hơn. Chính điều này, đã mở ra cho Việt Nam nói riêng một nền giáo dục mở hoàn toàn mới.

Điểm cộng là mang tới không gian học tập lý tưởng, phù hợp với mọi đối tượng. Bạn có thể học ở nhà, quán cà phê,…hay bất kỳ đâu bạn cảm thấy thoải mái nhất, tiếp thu kiến thức tốt nhất.

Với một tinh thần thoải mái, hiển nhiên kết quả học tập sẽ được cải thiện, nâng cao hơn. Nó giúp loại bỏ những giới hạn về khoảng cách, tối ưu thời gian học, nâng cao tư duy cho người học

 

            b) Không giới hạn trong truy cập tài liệu học tập, giảm chi phí in ấn:

Truy cập tài liệu học tập không giới hạn. Bởi với kho tài liệu khổng lồ, không giới hạn, bạn có thể truy cập một cách dễ dàng, đồng thời tiết kiệm được khá nhiều chi phí.

Hơn nữa, chuyển đổi số trong ngành giáo dục giúp bạn tìm kiếm, khai thác học liệu nhanh chóng bằng các thiết bị trực tuyến, không bị giới hạn bởi khả năng tài chính của người dùng.

Vậy nên, việc sử dụng công nghệ giúp chia sẻ tài liệu, giáo trình giữa giáo viên và học sinh sẽ dễ dàng và tiết kiệm hơn. Do bạn có thể giảm thiểu được chi phí in ấn.

 

             c) Chất lượng giáo dục được nâng cao

Chuyển đổi số trong giáo dục đã tạo nên kỷ nguyên mới, khi mà người dạy và người học được trao quyền để áp dụng công nghệ. Các thành tựu như:

  • Big Data giúp lưu trữ mọi kiến thức lên mạng
  • IoT giúp theo dõi hoạt động của học sinh, quản lý, giám sát học sinh.
  • Blockchain giúp quản lý thông tin, hồ sơ giáo dục của học sinh. Cho phép quản lý, chia sẻ dữ liệu từ nhiều trường khác nhau, ghi chép lại lịch sử học, bảng điểm để đảm bảo thông tin được minh bạch.

 

               d) Tiết kiệm tối đa chi phí học tập

Khả năng tiết kiệm chi phí là một lợi ích lớn, thiết thực mà chuyển đổi số trong giáo dục đem lại. Khi thấy được giá trị phương pháp mang lại, chắc chắn bạn sẽ thấy hài lòng về kết quả nhận được. Chính vì vậy, việc học tập sẽ trở nên suôn sẻ, không có quá nhiều ảnh hưởng từ xung quanh.

Chuyển đổi số trong ngành giáo còn giúp bạn có nhiều sự lựa chọn. Thay vì đến trường, bạn có thể tham gia khóa học e-Learning với chi phí rẻ hơn. Thậm chí bạn có thể chọn khóa học bạn quan tâm, phù hợp với bản thân. Điều này giúp bạn học tập chất lượng, hiệu quả hơn.

 

             6)  Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành giáo dục ở Việt Nam

a)   Tuyên truyền tư tưởng cho nhân sự

Phổ biến, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về tư tưởng, quyết tâm thực hiện chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Phổ biến đến từng địa phương, nhà trường, giáo viên, cán bộ quản lý. Cùng nhau xây dựng văn hóa số trong giáo dục. Bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên kiến thức, kỹ năng công nghệ để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.

 

b)  Áp dụng các phương pháp công nghệ

Tăng cường các phương pháp công nghệ: để nâng cao chất lượng, quản lý dữ liệu, thúc đẩy hình thức dạy – học trực tuyến qua mạng.

Hoàn thiện cơ sở mạng đồng bộ: tạo cơ hội học tập bình đẳng giữa các vùng miền khác nhau, ưu tiên thuê dịch vụ, huy động nguồn lực cùng tham gia.

Thúc đẩy phát triển học liệu số: Thực hiện ở tất cả cấp học, ngành học, môn học gắn với việc thẩm định nội dung, chia sẻ học liệu giữa các địa phương.

 

            c) Triển khai mạng xã hội giáo dục: Triển khai có kiểm soát, định hướng thống nhất, từ đó chia sẻ giữa cơ quan quản lý – nhà trường – gia đình. Phát triển các khóa học trực tuyến: Nhằm phục vụ công tác bồi dưỡng giáo viên, hỗ trợ dạy học tại những nơi khó khăn.

Qua bài chia sẻ này, đã một phần nào đó, giúp bạn hiểu được chuyển đổi số trong ngành giáo dục là gì, thực trạng sử dụng hiện nay tại Việt Nam, cũng như lợi ích chuyển đổi số đem lại. Hãy biết cách áp dụng thật đúng đắn, để tận dụng tối đa giá trị công nghệ đem đến cho con người.

 

 

 

 

 

 

 

 

III. TRONG HƠN 10 NĂM QUA,

TRƯỜNG THPT QUANG TRUNG ĐÃ THƯC HIỆN CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC NHƯ THẾ NÀO?

 

 

 

           Năm học 2021-2022,  Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn có khẳng định: Chuyển đổi số trong giáo dục là công việc khó không phải một sớm một chiều có thể thực hiện được, song cần phải bắt đầu ngay và phải được làm thường xuyên, với hy vọng 5-10 năm sau công cuộc chuyển đổi số của ngành sẽ đạt kết quả.

 

          Trường THPT Quang Trung ở Đà Nẵng xin báo cáo với bộ trưởng là trường đã thực hiện chuyển đổi số ở bậc trung học phổ thông với sự nỗ lực ngày đêm ròng rã trong hơn 10 năm qua, và hôm nay trường xin ý kiến chỉ đạo của bộ trưởng.

          Để thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục ở bậc trung học phổ thông. trường Quang Trung thực hiện 3 nội dung: Chuyển đổi số trong quản lý; quan trọng nhất là chuyển đổi số trong dạy và học; và để thực hiện đươc chuyển đổi số trong dạy và học, trường Quang Trung phải trang bị đầy đủ các thiết bị về CNTT.

 

A.   CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG QUẢN LÝ:

      Cũng như hầu hết các trường trong  thành phố Đà Nẵng, trường Quang Trung thực hiện Chuyển đổi số trong quản lý :

-      Các công văn, văn bản của Sở GD&ĐT được trường nhận qua Trao đổi nội bộ  và in ra để phổ biến đầy đủ trong hội đồng sư phạm, trong học sinh và trong phụ huynh;

-      Trường thường xuyên liên hệ với CB GV NV, học sinh, phụ huynh bằng Tin nhắn, cũng như Sổ điểm điện tử, Sổ liên lạc điện tử, Học bạ điện tử, … từ mạng giáo dục vnEdu. Có thể nói Quang Trung là trường đầu tiên thực hiện mạng giáo dục vnEdu, kết hợp với việc xây dựng “SGK điện tử” và “Giáo án điên tử” làm tiền đề cho công cuộc chuyrnr đổi số trong giáo dục;

-      Phần mềm Chia Thời khóa biểu sau khi có Phân công chuyên môn có sự kiểm tra nhất trí của giáo viên, của Tổ chuyên môn;

-      Gửi và nhận công văn, Tờ trình đến thành phố, Sở, Quận Thanh Khê, Quận đoàn, Phường Vĩnh Trung bắng CNTT;

-      Sử dụng các công cụ, phương tiện quảng cáo tuyển sinh đầu cấp.

-      Lập các báo cáo, tờ trình… liên hệ đến tuyển sinh, cụm thi đua, hội nghị Người lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho CB GV NV và cho học sinh…

-      Báo cáo phòng chống Covd-19, dạy và học online.

-      Phân công dạy thay, thực hiện bảng lương đúng hạn hàng tháng.

 

B. CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG DẠY VÀ HỌC:

1- Để hoàn thành cuộc cách mạng 3.0. trường Quang Trung đã thực hiện việc “số hóa” 33 bộ SGK giấy bậc trung học phổ thông thành 33 bộ SGK điện tử để học sinh học, đồng thời cũng là 33 bộ Giáo án điện tử để giáo viên dạy trên lớp:

        Trước hết thử tìm hiểu Lịch sử 4 cuộc cách mạng công nghiêp:

- Cách mạng công nghiệp lần 1: gắn với cơ khí hóa cùng sự xuất hiện của động cơ hơi nước;

- Cách mạng công nghiệp lần 2: gắn với điện và những dây chuyền sản xuất hàng loạt;

- Cách mạng công nghiệp lần 3: sự đột phá về công nghệ thông tin và sự tự động hóa;

- Cách mạng công nghiệp lần 4: sự xuất hiện của những hệ thống quản lý ảo. Điển hình là sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo AI, rô bốt, máy in 3D, đột xuất về nhận thức trong những quy trình sinh học. Một trong các lĩnh vực được đánh giá cao thay đổi mạnh mẽ nhất là lĩnh vực công nghệ thông tin, lĩnh vực số.

 

       Như vậy, giáo viên ta hiện nay đang dạy trên lớp bằng viên phấn và bảng đen với đầy đủ ánh sáng đèn điện trên lớp thì ngành giáo dục hiện nay mới ở cuộc cách mạng công nghiệp 2.0 . Trong khoảng thời gian từ 5 đến 10 năm, ngành giáo dục Việt Nam phải kinh qua cuộc cách mạng 3.0 , đó là phải số hóa toàn bộ SGK giấy các cấp thành các bộ SGK điện tử và các bộ Giáo án điện tử để giáo viên dạy trên lớp (chứ không bỏ thời gian viết lại SGK giấy như hiện nay, vì nếu phí phạm thời gian như thế thì để thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục không phải chỉ 5 đến 10 năm mà phải đến vài ba chục năm !). Tiếp theo, muốn đạt được chuyển số hóa trong giáo dục trong cuộc cách mạng 4.0 thì Bộ GD&ĐT phải có các Quy định để tập huấn cho giáo viên dạy được giáo án điện tử này trên lớp.

 

       Trường THPT Quang Trung xin báo cáo với bộ trưởng các giai đoạn để chuyển  cuộc CMCN 2.0 sang cuộc CMCN 3.0 và chuyển cuộc CMCN 3.0 sang cuộc CMCN 4.0 như thế nào?

 

 

 

 

 

 

Trường THPT Quang Trung

chuyển cuộc CMCN từ 2.0 sang 3.0

***************************

 

 

           1. Từ năm 2005 với chủ trương của Bộ GD&ĐT là đưa CNTT vào trường: Trường Quang Trung bước đầu thực hiện cuộc cách mạng công nghệ 3.0 là đưa CNTT vào trường bài giảng powerpoint ở vài tiết học của các lớp,

       Sau các năm chuẩn bị, trường Quang Trung hạ quyết tâm đưa CNTT vào từng lớp học: Cao điểm là năm 2008, trường đã tổ chức NGÀY HỘI CÔNG NGHỆ THÔNG TIN thành công với sự chứng kiến Sở GD&ĐT thành phố Đà Nẵng, Hiệu trưởng các trường THPT, Giám đốc các Trung tâm GDTX với:

-   Sự thuyết minh của 11 tổ chuyên môn về bài giảng powerpoint trên máy chiếu với lời giảng bài của các giáo viên;

-    Ra mắt trang Web: thptquangtrung.vn chứa cơ bản các Bài giảng powerpoint, Thư viện điện tử, Các thông tin về trường, Góc văn học của Giáo viên, Học sinh, Cựu giáo  chức, Cựu học sinh, các video, hình ảnh…

 

2.     Việc số hóa 33 Bộ SGK giấy thành 33 Bộ SGK điện tử:

2.1) Đưa CNTT vào lớp học bằng powerpoint: Liền sau thành công của Ngày hôi CNTT của trường, hiệu trưởng động viên tất cả giáo viên từ SGK giấy, giáo viên chuyển sang giáo án word, rồi từ word chuyển sang powerpoint, và từ năm học 2008-2009, trường bỏ tiền ra trang bị máy vi tính máy chiếu và động viên giáo viên dạy trên lớp bằng powerpoint.

Trong giai đoạn này, Bộ đã tổ chức nhiều cuộc hội nghị để tập huấn cho các cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên biết tin học các kỹ năng xây dựng phòng bộ môn, phương pháp dạy học bằng CNTT, phương pháp soạn giáo án để họ về trường xây dựng phòng bộ môn, thiết kê các bài giảng trình chiếu powerpoint để tập huấn lại cho giáo viên toàn trường biết dạy học bằng CNTT. Tuy nhiên, có một trở ngại là còn nhiều cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên chưa biết về tin học, nhất là những người lớn tuổi, điều này ảnh hưởng đến nhiều học sinh không được thụ hưởng các bài học bằng CNTT. Một học sinh khi được học một tiết học về CNTT, các em sẽ thích thú, dễ tiếp thu bài học với mẫu chữ màu và lớn, nhiều hình ảnh sinh động, kể cả các video, các thí nghiệm ảo,…Nhưng điều quan trọng nhất là do các em được tiếp cận sớm CNTT nên khi các em ra đời hay học lên đại học cao đẳng dễ hòa đồng với các môi trường xã hội, làm tiền đề để tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 rất quan trọng hiện nay.

 

2.2) Đưa CNTT vào lớp học bằng Bài giảng điện tử e-Learning: Khát vọng muốn nâng Bài giảng powerpoint lên tầm cao hơn.

Mùa hè năm 2009, từ khi Ông Cục trưởng Cục CNTT Bộ GD&ĐT Quách Tuấn Ngọc về tập huấn Bài giảng điện tử e-Learning cho các cán bộ giáo viên cốt cán của Sở GD&ĐT thành phố Đà Nẵng. Hội đồng sư phạm trường Quang Trung xem như “một phép lạ” để trường Quang Trung tìm hiếu để nâng cấp và bổ sung khát vọng xây dựng một trường học điện tử. Phải chăng Bài giảng được trình chiếu bằng powerpoint với các độ lớn và màu của các con chữ, các hình ảnh phụ họa còn có nhiều hạn chế tính hấp dẫn cho học sinh, có chăng đưa được các lời giảng của thầy cô giáo vào đây thì tuyệt vời biết bao! Khi đó học sinh tự học trước ở nhà mà không cần đi học thêm gây bức xúc cho xã hội thì không có gì tuyệt vời bằng!

Qua tham khảo phần mềm Lecture Maker của Hàn quốc, trường Quang Trung quyết tâm nghiên cứu Bài giảng điện tử e-Learning. Trước khi về nghỉ hè năm 2009, Ban Giám hiệu trường Quang Trung có ra một quyết định là tất cả giáo viên về nhà nghiên cứu Bài giảng e-Learning mà Bộ vừa mới phổ biến và hiệu trưởng ra chỉ đạo là mỗi giáo viên trong hè phải soạn cho bằng được một tiết dạy Bài giảng điện tử e-Learning để khi tựu trường năm học mới 2009-2010 tất cả giáo viên phải báo cáo cho Ban Giám hiệu.

Trong buổi họp hội đồng đầu năm học 2009-2010, khi hiệu trưởng hỏi có giáo viên nào đã soạn được Bài giảng điện tử e-Learning không, thì rất tiếc không có một giáo viên nào soạn được cả.

Tình hình lâm vào cảnh bế tắt, chẳng lẽ trường bỏ cuộc hay sao? Cái quyết tâm hiện đại hóa giáo dục của trường Quang Trung biết làm sao đây?

Thầy Phạm Sỹ Liêm sau nhiều ngày đêm tìm hiểu trên mạng, tham khảo với đứa con trai đang du học sau đại học ở trường Đại học Beckley ở San Francisco bang California, cuối cùng thầy Liêm đã tìm ra thêm một phần mềm để chèn lời giảng bài của giáo viên lên bài giảng powerpoint. Từ đó mở ra được một giai đoạn  hình thành được Bài giảng điện tử e-Learning để được giảng dạy đại trà trên lớp!

Thế rồi thầy hiệu trưởng tự soạn ra mỗi môn học một Bài giảng e-Learning, sau đó họp hội đồng thầy trình chiếu cho cả hội đồng xem trên máy chiếu và nghe trên loa. Các giáo viên phấn khởi và đồng tình về lại nhà với máy tính của mình, mua thêm mic để thu âm lời giảng bài của chính mình theo 5 bước trên lớp.

 

Thế là khó khăn đã vượt qua, một chân trời mới đã xuất hiện. Năm  học mới 2009-2010 tất cả học sinh trường THPT Quang Trung được thụ hưởng một kết quả do công trinh nghiên cứu của hội đồng sư phạm trường Quang Trung đã dày công khổ luyện làm ra.

 

2.3) Đưa CNTT vào lớp học bằng Bài giảng điện tử e-Learning: Khát vọng muốn nâng Bài giảng powerpoint lên tầm cao hơn.

Mùa hè năm 2009, từ khi Ông Cục trưởng Cục CNTT Bộ GD&ĐT Quách Tuấn Ngọc về tập huấn Bài giảng điện tử e-Learning cho các cán bộ giáo viên cốt cán của Sở GD&ĐT thành phố Đà Nẵng. Hội đồng sư phạm trường Quang Trung xem như “một phép lạ” để trường Quang Trung tìm hiếu để nâng cấp và bổ sung khát vọng xây dựng một trường học điện tử. Phải chăng Bài giảng được trình chiếu bằng powerpoint với các độ lớn và màu của các con chữ, các hình ảnh phụ họa còn có nhiều hạn chế tính hấp dẫn cho học sinh, có chăng đưa được các lời giảng của thầy cô giáo vào đây thì tuyệt vời biết bao! Khi đó học sinh tự học trước ở nhà mà không cần đi học thêm gây bức xúc cho xã hội thì không có gì tuyệt vời bằng!

Qua tham khảo phần mềm Lecture Maker của Hàn quốc, trường Quang Trung quyết tâm nghiên cứu Bài giảng điện tử e-Learning. Trước khi về nghỉ hè năm 2009, Ban Giám hiệu trường Quang Trung có ra một quyết định là tất cả giáo viên về nhà nghiên cứu Bài giảng e-Learning mà Bộ vừa mới phổ biến và hiệu trưởng ra chỉ đạo là mỗi giáo viên trong hè phải soạn cho bằng được một tiết dạy Bài giảng điện tử e-Learning để khi tựu trường năm học mới 2009-2010 tất cả giáo viên phải báo cáo cho Ban Giám hiệu.

Trong buổi họp hội đồng đầu năm học 2009-2010, khi hiệu trưởng hỏi có giáo viên nào đã soạn được Bài giảng điện tử e-Learning không, thì rất tiếc không có một giáo viên nào soạn được cả.

Tình hình lâm vào cảnh bế tắt, chẳng lẽ trưởng bỏ cuộc hay sao? Cái quyết tâm hiện đại hóa giáo dục của trường Quang Trung biết làm sao đây?

Thầy Phạm Sỹ Liêm sau nhiều ngày đêm tìm hiểu trên mạng, tham khảo với đứa con trai đang du học sau đại học ở trường Đại học Beckley ở San Francisco bang California, cuối cùng thầy Liêm đã tìm ra thêm một phần mềm để chèn lời giảng bài của giáo viên lên bài giảng powerpoint. Từ đó mở ra được một giai đoạn  hình thành được Bài giảng điện tử e-Learning để được giảng dạy đại trà trên lớp!

Thế rồi thầy hiệu trưởng tự soạn ra mỗi môn học một Bài giảng e-Learning, sau đó họp hội đồng thầy trình chiếu cho cả hội đồng xem trên máy chiếu và nghe trên loa. Các giáo viên phấn khởi và đồng tình về lại nhà với máy tính của mình, mua thêm mic để thu âm lời giảng bài của chính mình theo 5 bước trên lớp.

 

Thế là khó khăn đã vượt qua, một chân trời mới đã xuất hiện. Năm  học mới 2009-2010 tất cả học sinh trường THPT Quang Trung được thụ hưởng một kết quả do công trinh nghiên cứu của hội đồng sư phạm trường Quang Trung đã dày công khổ luyện làm ra.

 

2.3-  Các giai đoạn để hình thành bài giảng điện tử e - Learning.

     a) Từ chủ trương của Bộ là một giáo viên trong một năm học chỉ cần phải soạn 1 tiết dạy học bằng e-Learning đến một khát vọng vĩ đại là giáo viên Quang Trung phải biết soạn và biết dạy 100% các tiết dạy học bằng bài giảng điện tử e-Learning:

    Như chúng tôi đã thông báo, Bộ GDĐT chỉ yêu cầu mỗi giáo viên bậc THPT chỉ cần một năm soạn cho được một bài giảng điện tử e – Learning mà thôi. Mà trường Quang Trung lại có khát vọng muốn tất cả giáo viên phải biết soạn 100% bài giảng điện  tử e - Learning để dạy trên lớp. Đây là một yêu cầu rất cao để hình thành tất cả các bài giảng điện tử e - Learning từ tuần 1 đến tuần 36 cho tất cả 11 môn học từ lớp 10 đến lớp 12, và nếu thực hiện được thì đúng là một công trình vĩ đại, đòi hỏi tiền của và công sức với sự nỗ lực rất lớn của trường Quang Trung.

 Từ năm học 2009 - 2010 tất cả các giáo viên trường Quang Trung đều phải soạn trước ít nhất hai tuần bài giảng điện tử e - Learning.

 Tất cả các bài giảng này đều phải nộp cho hiệu trưởng xét duyệt, bài giảng nào chưa đạt yêu cầu thì trả lại để bổ sung. Trong thời gian đầu, các bài giảng e - Learning có đuôi là .lne, với đuôi này thì không phải máy tính nào cũng đọc được, và chỉ đọc được khi máy tính đó có cài phần mềm Lecture Maker của Hàn Quốc. Trong học kỳ I, trường chỉ đạo khi soạn các bài giảng này phải theo một thứ tự bắt buộc có tính khoa học như sau:

"Tuần thứ - Tiết thứ - Tên bài giảng - Tên giáo viên".

  Kết quả, trường hình thành 11 folder có tên 11 môn học Toán, Lý, Hóa, Sinh, Công nghệ, Tin, Văn, Sử, Địa, GDCD, Tiếng Anh. Trong mỗi folder, có các file là các bài giảng của nhiều giáo viên. Điều cần lưu ý, là một tiết dạy điện tử được nhiều giáo viên soạn, cho nên có nhiều môn, mỗi tuần chỉ theo PPCT có 2 đến 3 tiết, thì tuần đó có từ 6 đến 10 file, do nhiều giáo viên cùng soạn và do có một số tiết phụ đạo và nâng cao do trường tăng tiết dạy.

Sau kết quả khả quan ở học kỳ I, trường THPT Quang Trung họp hội đồng để sơ kết rút kinh nghiệm bài giảng điện tử ở học kỳ I và sau đó triển khai soạn bài giảng điện tử e - Learning học kỳ II. Kết quả là cuối học kỳ II mỗi môn học đều có một folder chưa các file theo PPCT của trường ở học kỳ II. Nếu tổng hợp lại 2 học kỳ thì được Bài giảng điện tử e-Learning cả năm.

        Như vậy, để có được bộ SGK điện tử bặc THPT, hiệu trưởng và tập thể giáo viên Quang Trung đã bỏ ra biết bao công sức ngày đêm lao động trí tuệ !

 

3. Báo cáo công trình số hóa bộ SGK giấy thành bộ SGK điện tử lên Chính phủ và lên Bộ GDĐT.

      Đầu năm học 2014 - 2015, sau khi tập hợp các folder và xếp theo thứ tự các file từ tuần 1 đến tuần 36, hiệu trưởng trường THPT Quang Trung gửi kết quả này lên Thủ trưởng Nguyễn Tấn Dũng, các Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Vũ Đức Đam và Bộ trưởng Bộ GDĐT Phạm Vũ Luận.

       Sau đó 1 tháng, trường Quang Trung rất vui mừng được sự phản hồi:

- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng qua thư có bút phê của thủ tướng giao cho chánh văn phòng Thủ tướng Nguyễn Khắc Định ký và chuyển kết quả này đến Bộ GDĐT và ghi nhận công trình số hóa SGK này.

- Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (nay là Chủ tịch nước) đã gửi thư khen ngợi trường Quang Trung:  "Xin cảm ơn Ông đã gửi cho tôi về  hiện đại hóa giáo dục và ứng dụng bộ đĩa DVD về số hóa SGK bậc THPT. Trong những năm qua, Ông và trường Quang Trung đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đặc biệt sáng kiến ứng dụng 13 đĩa DVD số hóa SGK 11 môn học lớp 10, 11, 12 đã góp phần thiết thực vào việc triển khai Nghị quyết TW8 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo".

- Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đã điện thoại trực tiếp cho hiệu trưởng Phạm Sỹ Liêm là đã nhận được bộ đĩa DVD và khen ngợi công lao của hiệu trưởng và trường Quang Trung.

- Trong thư của Bộ trưởng Bộ GDĐT  Phạm Vũ Luận có đoạn:

"Tôi đã nhận thư và bộ đĩa DVD của Thầy gửi Phó thủ tướng Vũ Đức Đam và gửi cho tôi kèm theo ý kiến hiện đại hóa giáo dục theo theo tinh thần Nghị quyết số 29. Tôi đã chỉ đạo Bộ phận thường trực đổi mới chương trình SGK và các đơn vị chức năng của Bộ nghiên cứu nội dung Công trình số hóa SGK hiện hành bậc THPT mà Thầy và đồng nghiệp đã công phu chuẩn bị trong thời gian vừa qua"

- Trong Công văn số 3876/BGDĐT - GDTrH ngày 31/7/2015 do Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học Nguyễn Xuân Thành thừa lệnh Bộ trưởng ký và đóng dấu có đoạn: " Bộ giáo dục và đào tạo hoan nghênh sự cố gắng của nhà trường về việc tổ chức sản xuất bộ đĩa DVD phục vụ dạy học trong trường trung học."

 

4. Việc sắp xếp lại các thành quả này theo môn học, theo tuần và theo file.

Do một tiết học của một môn học là do nhiều giáo viên sản xuất, nên hiệu trưởng phải sắp xếp lại theo môn, mỗi môn theo tuần, mỗi tuần theo thứ tự file. Đây là một việc cũng rất vất vả và tốn nhiều thời gian.

Với một môn học, khi được sắp xếp theo từng folder, mỗi folder gồm nhiều file trong một tiết dạy. Có đến 36 tuần của một năm như vậy mỗi môn học có đều 36   tuần, ví dụ folder môn Toán 12 có đến 36x10= 360 file. Do số file nhiều quá làm cho  học sinh khó tìm ra file để học, nên thầy Liêm lại chia mỗi tuần là một folder con, mỗi folder con có từ 6 đến 10 file. Như vây các môn chứa quá nhiều file như Toán, Lý, Hóa, Tin, Văn, Tiếng Anh thì mỗi folder môn học chia ra 36 folder con. Còn các môn còn lại không chia theo các folder con.

Tóm lại, đây là một khối lượng khổng lồ mà hiệu trưởng Phạm Sỹ Liêm vì đam mê mà bỏ ra một thời gian rất dài (thay vì nghỉ ngơi tuổi hưu trí) để hình thành một công trình biến 33 bộ sách giáo khoa giấy hiện hành thành 33 bộ sách giáo khoa điện tử e-Learning (còn gọi là bộ giáo án điện tử e – Learning), mà nếu có một  cơ quan nào đó thực hiện thì số tiền trên chi phí lên đến hàng nhiều tỉ đồng.

         Việc các lãnh đạo trung ương tuy không chuyên về giáo dục nhưng các vị này  vẫn thấy giá trị công sức của công trình, tuy nhiên nhiều đời bộ trưởng GD&ĐT vẫn chưa thấy giá trị về Chuyển đổi số trong giáo dục (như bộ trưởng NN-PTNT đã thấy giá trị việc Chuyển đổi số trong nông nghiệp, từ đó các trường THPT trên cả nước cũng chưa quan tâm vì họ chưa thấy chủ trương của Bộ GD&ĐT mặc dù chúng tôi đã in bộ đĩa DVD và gửi tặng trên 2.500 bộ SGK điện tử này!)

 

5.     Việc sản xuất đại trà ra các bộ đĩa DVD sách giáo khoa điện tử này.

- Khi đã hình thành duy nhất nên bộ sách điện tử  e-Learning này, trường Quang Trung muốn phổ biến đại trà nên cần phải sao in ra nhiều bản khác.

- Trước tiên, hiệu trưởng sử dụng máy vi tính: đó là dùng phần mềm sao chép đĩa CD/DVD bằng Nero. Bản thân Nero cũng có nhiều phiên bản, phải tìm một phiên bản mới để sao in nhanh nhất. Trong quá trình sao in một đĩa DVD phải tốn trên dưới 20 phút, do vậy để sao in 33 đĩa DVD thì rất tốn nhiều thời gian. Nếu muốn thâu ra chỉ một đĩa DVD cho một môn  thì thời gian cũng phải mất đến 10 giờ, mà cần sao ra 1000 bản phải mất 10.000 giờ. Thật là gay go phải không? Đây là một bài toán khó cần phải có trí tuệ để giải quyết!

- Để giải quyết bế tắt này, thầy hiệu trưởng tìm hiểu các cơ sở sao in đĩa CD và DVD bán trên thị trường các băng nhạc. Từ đó tìm ra được một máy sao in được 1 lần 10 đĩa thời gian sao in đĩa DVD 10 phút. Để tăng tốc độ in, trường đã mua thêm 3 máy sao in nữa. Như vậy, trong khoảng thời gian 4 tháng, trường Quang Trung đã sao in ra khoản 10.000 bộ đĩa DVD các bài giảng điện tử e - Learning.

Như đã nói ở trên, năm học 2021-2022, trường đã chuyển Bộ SGK điện tử vĩ đại và cồng kềnh sang một USB chỉ nhỏ bằng đầu ngón tay!

 

6.     Thực hiện hoài bảo “hiện đại hóa nền giáo dục” như lời của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trường Quang Trung đã làm những việc gì?

 Tuân thủ theo lời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gửi thư cho Ông Phạm Sỹ Liêm  “ Xin cảm ơn Ông đã gửi cho tôi về hiện đại hóa giáo dục và ứng dụng bộ đĩa DVD về số hóa SGK bậc THPT”, trường Quang Trung đã nảy sinh ra một ý tưởng làm thế nào để các trường THPT trước hết tại thành phố Đà Nẵng và sau đó là  63 tỉnh thành đều có bộ đĩa DVD này để tham khảo trong quá trình dạy học cả năm. Từ đó, trường Quang Trung đã xuất tiền ra để gửi bưu điện và tiền công sao in gửi miễn phí tặng cho hơn 2.500 trường trung học phổ thông và các trung tâm GDTX – DN trên cả nước và giới thiệu nếu trường nào giáo viên nào cần mua thì chúng tôi sẽ đáp ứng. Có một số trường và 1 số giáo viên đã phản hồi, nhưng rất tiếc số lượng này chưa cao.

         Do Bộ GD&ĐT chưa có chủ trương số hóa SGK giấy thành SGK điện tử, nên các trường chưa thấy được giá trị của công trình vĩ đại này của trường Quang Trung, nên chúng tôi trở thành người cô đơn giữa hầu hết các trường chỉ dạy trên lớp chỉ bằng viên phấn và bảng đen!!

 

 

Kết luận về giai đoạn chuyển từ cuộc CMCN 2.0 sang 3.0 của trường THPT Quang Trung:

 

Qua bao nhiêu cam go vất vã, bằng sự lao động ở mức độ cao nhất: Hiệu trưởng ngày đêm vắt óc tư duy suy nghỉ kế hoạch để chỉ đạo, để kiểm tra từng giáo án của từng giáo viên; giáo viên không chỉ dạy và soạn giáo án ban ngày, mà cả đêm thức giữa đêm để thâu lời giảng bài, vì khi có một tiếng động của trẻ con, người nhà, tiếng chó sủa, tiếng xe chạy thì phải xóa bài giảng e-Learning để soạn lại, hay soạn tiếng giảng bài nhỏ thì hiệu trưởng trả lại soạn lần thứ hai. Ôi biết bao nhiêu khổ cực mà lãnh đạo ngành giáo dục không hề quan tâm, không hề thấy đó là điển hình tiên tiến để nhận rộng ra, để giáo viên cả nước không biết day học bằng CNTT với giáo án điện tử! chỉ có Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc là quan tâm và gửi thư khen ngợi!

 

 

 

Trường THPT Quang Trung

chuyển cuộc CMCN từ 3.0 sang 4.0

**************************

 

1.- Thực hiện CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC của trường THPT Quang Trung TỪ HIỆN ĐẠI HÓA NỀN GIÁO DỤC BẰNG

CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 3.0 dẫn đến Chuyển đổi số trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

 

     Sau khi hình thành xong Bộ SGK điện tử và Bộ Giáo án điện tử, trường THPT Quang Trung tiến hành bước Chuyển đổi số trong dạy cho học sinh tại lớp và việc học sinh tự học SGK điện tử tại nhà mà không cần đi học thêm để hoàn thành việc chuyển đổi số trong giáo dục bậc trung học phổ thông:

 

1.1 Hướng dẫn giáo viên soạn Bài giảng điện tử e-Learning:

Đầu mỗi năm học, nhà trường dành 15 ngày trước khai giảng:

- Để giáo viên hướng dẫn học sinh biết sử dụng SGK điện tử tự học ở nhà;

- Đồng thời tập huấn cho giáo viên biết phương pháp dạy học Bài giảng điện tử trên lớp, biết kết hợp 50% dạy học bằng phương pháp truyền thống với 50% thời gian dạy học bằng Giáo án điện tử e-Learning.

           Trường quy định: Giáo án điện tử này phải soạn giống như giáo án truyền thống mà thầy cô đã soạn từ trước đến nay, nghĩa là phải tuân theo 5 bước có phân phối thời gian rõ ràng:

Bước 1 (1 phút): Ổn định lớp: Giáo viên sau khi cho học sinh đứng dậy, lớp trưởng báo cáo số lượng và tên học sinh vắng để giáo viên ghi vào giáo án và cho học sinh ngồi xuống theo sơ đồ lớp;

Bước 2 (5 đến 7 phút):Kiểm tra bài cũ: Giáo viên soạn 3 câu theo 3 trình độ: khó, trung bình, yếu (soạn trước ở tiết trước đó để học sinh chuẩn bị trước ở nhà) và dò bài học sinh bằng đĩa dò bài hay bằng cách khác nào đó, có cho điểm công khai;

Bước 3: (33 đến 35 phút): Giảng bài mới: Tùy theo chỉ đạo của từng môn học có thể chia thành 2 đến 3 cột. Đây là phần cơ bản của bài giảng;

Bước 4: (2 phút): Củng cố: Phần cơ bản nhất và ngắn gọn nhất của tiết dạy mà học sinh phải nhớ khi rời phòng học, phải khắc sâu ngay, được xem như một đơn vị kiến thức mà học sinh phải nhớ đời;

Bước 3: (3phút):Hướng đẫn học ở nhà(không dùng: Dặn dò): Soạn 3 câu hỏi khó, trung bình, dễ để dò bài tiết sau.

Sau thành công rực rỡ bước đầu này, tất cả giáo viên căn cứ vào phân phối chương trình của Sở và của trường mà soạn Giáo án điện tử e-Learning trước ít nhất là trước 2 tuần để nộp cho hiệu trưởng phê duyệt. Các bài giảng nào chưa đạt yêu cầu như bị khống chế về thời gian, không đủ các bước, tiếng giảng bài còn nhỏ, tên các bài giảng không đúng quy định đều bị trả lại để soạn lại tốt hơn.

 

       1.2- Một trở ngại lớn phải vượt qua: Khi một giáo viên sản xuất ra một file phục vụ cho một tiết dạy bằng bài giảng điện tử e-Learning, sản phẩm xuất xưởng theo phần mềm Lecture Maker chỉ có duôi .lme . Mà muốn đọc và nghe được lời giảng bài của giáo viên, máy tinh phải được cài phần mềm Lecture Maker của Hàn Quốc. Đây là một hạn chế lớn để phổ biến đại trà cho các giáo viên khác nhất là cho học sinh.

       Để vượt quan trở ngại này, thì chính duy nhất hiệu trưởng Quang Trung phải tìm cách chuyển trên 10.000 file có đuôi .lme sang đuôi .exe . Đây là một việc làm gian khổ của hiệu trưởng Quang Trung. Hiệu trưởng phải sử dụng thời gian 5 tháng làm việc cả ngày lẫn đêm để chuyển toàn bộ

       Khi đã hoàn thiện đuôi .exe rồi, phải làm thế nào để sản xuất đại trà SGK điện tử này để giao viên và học sinh sử dụng trên bất kỳ máy vi tính nào mà không cần phải cài phần mềm Lecture Maker. Việc này cũng rất công phu: phải thu các bài giảng này sang các đĩa DVD có dung lượng lớn. Lúc đầu, hiệu trưởng thu trên máy vi tính, nhưng để có được một đĩa phải mất cả ngày, thế thì làm sao thu được hang ngàn đĩa để thị trường sử dụng. Sau một thời gian nghiên cứu, hiệu trưởng mua  được một máy thu như các cơ sở kinh doanh đĩa đã làm. Kết quả tốt, hiệu trưởng mua thêm 2 máy. Từ đó, ròng rã một năm, hiệu trưởng đã sản xuất ra hang loạt bộ đĩa DVD. Mỗi khối lớp có 4 bộ đĩa DVD phục vụ cho 11 môn học là Toán, Văn, Anh, Lỳ, Hóa, Sinh, Tin, Công nghệ, Sử , Địa, GDCD. Cả 3 khối lớp có 12 bộ đĩa DVD.

         

      1.3- Cái khó của người mở đường: Biết bao nhiêu công sức để hình thành bộ SGK điện tử và sản phẩm đã hoàn thành sẵn sàng đưa ra thị trường sử dụng. Do Bộ GD&ĐT chưa có chủ trương dạy học bằng CNTT trên lớp mà chỉ dạy bằng viên phấn bảng đen ở thế hệ 2.0, nên sản phẩm SGK điện tử thế hệ 3.0 bị thị trường cả nước chê không sử dụng. Để khẳng định điều này, chúng tôi đã bỏ tiền và công sức để gửi 12 bộ đĩa DVD chp trên 2,500 trường THPT và Trung tâm GDTX cả nước nhưng được đáp trả với một số lượng rất nhỏ.

Người mở đường trở thành người cô đơn

trong bối cảnh cuộc cách mạng 3.0 vá 4.0

    diễn ra một cách vũ bão trên toàn thế giới!!!

 

      1.4 Bản lĩnh của người mở đường: Tuy vô cùng khó khăn, nhưng trường Quang Trung vẫn tiến bước vào cuộc CMCN 4..0 để thực hiện công cuộc chuyển đổi số bậc trung học phổ thông. Trong nhiều năm học sau khi hoàn thiện bộ SGK điện tử cũng là bộ Giáo án điện tử. hiệu trưởng trường THPT Quang Trung cũng đơn phương chỉ đạo giáo viên dạy trên lớp bằng Giáo án điện tử và chỉ đạo học sinh tự học SGK điện tử ở nhà, biết soạn trước các nội dung mà GVBM đã chỉ định ở tiết trước.

       Để minh họa điều này, chúng tôi xin trình bày việc dạy và việc học của trường Quang Trung trong năm học 2021-2022.

 

 

 

2.      TỪ HƯỚNG DẪN GV SOẠN GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ VÀ DẠY TRÊN LỚP BẰNG CNTT ĐỂ THỰC HIỆN CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC THÔNG QUA VIỆC PHÁT CÁC USB VỀ GA ĐT CHO GV VÀ SKG ĐT CHO HS TRONG NĂM HỌC 2021-2022.

 

       2.1 Việc chuyển 12 bộ đĩa DVD tương đối cồng kềnh sang một USB nhỏ xíu bằng đầu ngón tay:

 Năm học 2021-2022, GV các Tổ vẫn giữ lại PPCT năm học cũ 2020-2021. Tuy nhiên việc soạn giáo án hoàn toàn thay đổi: 100% GV phải soạn lại giáo án mới, gọn nhẹ hơn nhưng hiệu quả hơn, bởi lẽ năm học vừa qua nhà trường có hướng dẫn soạn và dạy trên lớp bằng USB, nhưng vài GV chấp hành chưa triệt để. Vì thế trong  năm học này, trong 3 tháng hè, hiệu trưởng đã bỏ công sức để copy trên 10.000 Bài giảng điện tử e-Learning từ 12 bộ đĩa DVD hơi cồng kềnh sang các USB rất nhỏ và phát đến tận tay giáo viên cũng như phát cho tất cả học sinh nên:

        Nguyên tắc chung là: GV bám vào USB mà trường đã phát từ đầu năm nay, GV  đọc kỹ từng file mà các GV cũ trước đây đã soạn, chọn các file hay nhất và sắp thứ tự, thông báo trước cho HS ít nhất 2 tuần để HS tự soạn trước ở nhà trên vở, đến lớp GV kiểm tra bài soạn của 3 HS bằng đĩa dò bài hay chỉ định hay xung phong. Sau đó GV nhận xét cho điểm và giảng rõ cho cả lớp, và  GV sẽ dạy đầy đủ trong phần giảng bài mới, HS phải ghi đầy đủ bài giảng này trong vở, cuối mỗi tiết dạy GV thông báo cho HS học tiết kế tiếp file trong USB nào trong tuần đó của USB. Nhà trường sẽ thường xuyên kiểm tra việc dạy của GV có đúng kế hoạch không, GV nào làm sai sẽ được nhắc nhỡ, phê bình, thậm chí cắt thi đua. Tuy nhiên, trong năm học này, do tình hình Covid, phải học online một thời gian nên dạy và học có phần hạn chế.

 

 

    VÍ DỤ1 TIÊU BIỂU: Tuần thứ 20 môn Toán 10, có đến 10 lile, giáo viên chọn 1 file để dạy trên lớp, còn 9 file tự học tham khảo tại nhà do nhiều giáo viên cùng dạy

 

 

 

 

 

 

 

 

VÍ DỤ 2 TIÊU BIỂU MÔN VĂN LỚP 11:

 

 

 

 

 

 

 

 

 

VÍ DỤ 3 TIÊU BIỂU MÔN ANH LỚP 12:

 

 

 

 

 

CHÚ Ý 1: Các đĩa xanh ở trên nếu không mở được thì chúng tôi đính kèm:

1)    Đĩa DVD môn Ngữ Văn l0, một trong 33 cuốn SGK điện tử của trường THPT  Quang Trung;

2)    Đĩa CD về Ngân hàng Câu hỏi trắc do trường Quang Trung soạn và sưu tầm để bổ sung phần trắc nghiệm trong Kiểm tra thường xuyên, Giữa kỳ, Học kỳ và Thi TN THPT.

         Tuy Sở  GD ĐT có hướng đẫn GV năm nay trong 2 tuần đầu không dạy bài mới, chỉ ôn tập kiến thức cũ vì HS chưa mua được SGK do giãn cách không ra đường được. Tuy nhiên, trường Quang Trung đã chuẩn bị SGK điện tử bằng USB, nên trường Quang Trung chỉ dành 1 đến 2 tiết đầu hướng dẫn HS phương pháp học, nhất là học online, sau đó dù chưa hết giãn cách nhưng HS vẫn học trên SGK điện tử, SGK giấy dung để tham khảo.

         Về việc dạy trên lớp, trừ tiết 1, sau tiết 1 GV phải hướng dẫn HS tự học trên USB file nào, tiết mấy, thứ tự file kể từ trên xuống dưới hay từ dưới lên trên.

 

CHÚ Ý 2 : Về việc chỉ đạo GV dạy bài mới năm học 2021-2022 để thực hiện tốt hơn trong Chuyển đổi số của trường THPT Quang Trung.

              1/ GV soạn bài phải bám sát về các bài giảng của GV cũ trước đây trên USB từng tuần một.

              2/ Sau mỗi tiết dò bài 3 HS, GV dạy bằng miệng như trước đây, chữa lại lý thuyết và bài tập, cho HS ghi vào vở và phải kiểm tra các HS nào lơ là không ghi, cho điểm trừ.

               3/ Thời gian kiểm tra 3 học sinh soạn bài trên USB ở nhà là 6 phút, sau đó GV giảng miệng, tóm tắt kiến thức cơ bản và hướng dẫn học ở nhà.

               4/ Nhà trường sẽ kiểm tra GA ĐT 15 tiết đầu tiên (2 tuần cho Toán Văn Anh) trong ngày thứ năm tuần 1. Sau đó, cứ 2 tuần kiểm tra GA ĐT một lần.

 

 

C.  CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA TRƯỜNG THPT QUANG TRUNG ĐỂ THỰC HIỆN CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC

 

           Để thực hiện được chuyển đổi số đến từng lớp học, các trường nói chung phải trang bị các thiết bị CNTT đến từng lớp học, tốn rất nhiều tiền của. Riêng trường THPT Quang Trung, từ năm 2005, trường đã trang bị 50% máy vi tinh đến các lớp hoc, mua máy chiếu từ Mỹ để trang bị cho các lớp học này.

             Những năm sau đó trường lần lượt trang bị thêm cho các lớp học nữa, đến năm 2015 trường Quang Trung đã trang bị 100% máy vi tính và máy chiếu, các sau này đổi ti vi 55 inch. Trong thời gian này, các thiết bị thường hay trở ngại phải đi chữa, thậm chí hư hỏng phải thay mới. Nhìn chung, việc đổ tiền bạc để trang bị các thiết bị này đối với trường tư thục phải bỏ tiền túi ra là rất lớn, có khó khăn nhưng trường vẫn cố gắng vượt qua mới hoàn thành được việc chuyển đổi số trong dạy và học.

              Trong các năm học mới, chúng tôi phải nỗ lưc hơn nữa để trang bị các thiết bị dạy học để hoàn thiện hơn nữa việc chuyển đổi số trong giáo dục của trường Quang Trung.

                               

 

                                IV.    KẾT  LUẬN

 

1-    Chuyển đổi số là vấn đề rất mới, rất thời thượng trên toàn thế giới trong thời đại đang có cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra. Nước Việt Nam ta muốn tiến nhanh và hiện đại hóa đất nước phải lấy chuyển đổi số lên hàng đầu. Ngành giáo dục Việt Nam muốn thực hiện “Đổi mới căn bản và toàn diện” phái lấy chuyển đổi số trong giáo dục lên hàng đầu. Để hiện thực được  điều này, phải cần một chủ trương cụ thể của Bộ GD&ĐT, không thể chậm trể để giáo viên chỉ lên lớp chỉ bằng viên phấn và bảng đen như hiện nay. Đó là một một trong các lý do đó mà nhiều trường chưa thực hiện được chuyển đổi số trong dạy và học. Nguyên do chính là các trường đó không tạo ra được SGK điện tử, mà Bộ vẫn còn chủ trương soạn giáo án giấy mà chưa có chủ trương soạn giáo án điện tử.

 

2)    Tại sao Bộ GD&ĐT chưa biểu dương các trường nào đã thực hiện chuyển đổi số, đã dạy trên lớp bằng CNTT, dạy được một số tuần, một số tháng, một học kỳ hay cả năm! Có nên xem các trường đó là điển hình tiên tiến, có cần nhân rộng ra không?

 

3)    Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang chờ chúng ta, các sản phẩm về công nghiệp 4.0 đang phục vụ chúng ta, ngành y tế đang phục vụ chúng ta chống đại dịch cứu sinh mạng bao nhiêu người, ngành nông nghiệp không chỉ chạy theo số lượng như mỗi năm có mấy triệu tấn gạo xuất khẩu, mà phải đổi mới tư duy là cần chú trọng đến giá trị sản phẩm, như người Nhật sản phẩm nông nghiệp của họ làm ra đã được chế biến thành các sản phẩm bán trên các siêu thi toàn thé giới nên người nông dân của họ đã có thu nhập cao rất nhiều lần so với thu nhập của nông dân Việt Nam!

 

Đà Nẵng, tháng 02 năm 2022.

 

 

 

Người báo cáo:

 

 PHẠM SỸ LIÊM

Chủ đầu tư kiêm Hiệu trưởng trường THPT Quang Trung TP Đà Nẵng.

 

Sơ lược về người báo cáo:

-         Sinh ngày 05-01-2044 (cùng tuổi với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng) tại Đà Nẵng;

-         Cử nhân Giáo Khoa Toán học và Cao học Nhân khẩu và Thống kê Toán học tại trường đại học Khoa học Huế;

-         30 năm dạy Toán tại trường THPT Phan Châu Trinh và 25 năm quản lý trường THPT Quang Trung;

-         Có làm chuyên gia giáo dục tại tỉnh Battambang Campuchia năm 1984;

-         Có tham gia kháng chiến nội thành ở Miền Trung Trung bộ từ năm 1963 đến năm 1975 và được thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ.

 

----------------------------------------------------------------------------------------------------

 

 

 

 

 

PHẦN PHỤ LỤC:

1)      Trí tuệ nhân tạo AI là gì?

Trí tuệ nhân tạo hay trí thông minh nhân tạo (Artificial intelligence  – viết tắt là AI) là một ngành thuộc lĩnh vực khoa học máy tính (Computer science). Là trí tuệ do con người lập trình tạo nên với mục tiêu giúp máy tính có thể tự động hóa các hành vi thông minh như con người.

Trí tuệ nhân tạo khác với việc lập trình logic trong các ngôn ngữ lập trình là ở việc ứng dụng các hệ thống học máy (machine learning) để mô phỏng trí tuệ của con người trong các xử lý mà con người làm tốt hơn máy tính.

Cụ thể, trí tuệ nhân tạo giúp máy tính có được những trí tuệ của con người như: biết suy nghĩ và lập luận để giải quyết vấn đề, biết giao tiếp do hiểu ngôn ngữ, tiếng nói, biết học và tự thích nghi,…

Tuy rằng trí thông minh nhân tạo có nghĩa rộng như là trí thông minh trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng, nó là một trong những ngành trọng yếu của tin học. Trí thông minh nhân tạo liên quan đến cách cư xử, sự học hỏi và khả năng thích ứng thông minh của máy móc.

Có bao nhiêu loại AI?

Công nghệ AI được chia làm 4 loại chính:

Loại 1: Công nghệ AI phản ứng.

Công nghệ AI phản ứng có khả năng phân tích những động thái khả thi nhất của chính mình và của đối thủ, từ đó, đưa ra được giải pháp tối ưu nhất. 

Một ví dụ điển hình của công nghệ AI phản ứng là Deep Blue. Đây là một chương trình chơi cờ vua tự động, được tạo ra bởi IBM, với khả năng xác định các nước cờ đồng thời dự đoán những bước đi tiếp theo của đối thủ. Thông qua đó, Deep Blue đưa ra những nước đi thích hợp nhất. 

Loại 2: Công nghệ AI với bộ nhớ hạn chế

Đặc điểm của công nghệ AI với bộ nhớ hạn chế là khả năng sử dụng những kinh nghiệm trong quá khứ để đưa ra những quyết định trong tương lai. Công nghệ AI này thường kết hợp với cảm biến môi trường xung quanh nhằm mục đích dự đoán những trường hợp có thể xảy ra và đưa ra quyết định tốt nhất cho thiết bị.

Ví dụ như đối với xe không người lái, nhiều cảm biến được trang bị xung quanh xe và ở đầu xe để tính toán khoảng cách với các xe phía trước, công nghệ AI sẽ dự đoán khả năng xảy ra va chạm, từ đó điều chỉnh tốc độ xe phù hợp để giữ an toàn cho xe.

Loại 3: Lý thuyết trí tuệ nhân tạo

Công nghệ AI này có thể học hỏi cũng như tự suy nghĩ, sau đó áp dụng những gì học được để thực hiện một việc cụ thể. Hiện nay, công nghệ AI này vẫn chưa trở thành một phương án khả thi.

Loại 4: Tự nhận thức

Công nghệ AI này có khả năng tự nhận thức về bản thân, có ý thức và hành xử như con người. Thậm chí, chúng còn có thể bộc lộ cảm xúc cũng như hiểu được những cảm xúc của con người. Đây được xem là bước phát triển cao nhất của công nghệ AI và đến thời điểm hiện tại, công nghệ này vẫn chưa khả thi.

AI được ứng dụng thế nào trong cuộc sống hiện tại và tương lai

Trong ngành vận tải

Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trên những phương tiện vận tải tự lái, điển hình là ô tô. Sự ứng dụng này góp phần mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nhờ khả năng cắt giảm chi phí cũng như hạn chế những tai nạn nguy hiểm đến tính mạng.

Vào năm 2016, Otto, hãng phát triển xe tự lái thuộc Uber đã vận chuyển thành công 50.000 lon bia Budweisers bằng xe tự lái trên quãng đường dài 193 km. Theo dự đoán của công ty tư vấn công nghệ thông tin Gartner, trong tương lai, những chiếc xe có thể kết nối với nhau thông qua Wifi để đưa ra những lộ trình vận tải tốt nhất.

Trong sản xuất

Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng để xây dựng những quy trình sản xuất tối ưu hơn. Công nghệ AI có khả năng phân tích cao, làm cơ sở định hướng cho việc ra quyết định trong sản xuất. 

Trong y tế

Ứng dụng tiêu biểu của trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực y tế là máy bay thiết bị bay không người lái được sử dụng trong những trường hợp cứu hộ khẩn cấp. Thiết bị bay không người lái có tốc độ nhanh hơn xe chuyên dụng đến 40% và vô cùng thích hợp để sử dụng ở những nơi có địa hình hiểm trở.

Trong giáo dục

Sự ra đời của trí tuệ nhân tạo giúp tạo ra những thay đổi lớn trong lĩnh vực giáo dục. Các hoạt động giáo dục như chấm điểm hay dạy kèm học sinh có thể được tự động hóa nhờ công nghệ AI. Nhiều trò chơi, phần mềm giáo dục ra đời đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng học sinh, giúp học sinh cải thiện tình hình học tập theo tốc độ riêng của mình.

Trí tuệ nhân tạo còn có thể chỉ ra những vấn đề mà các khóa học cần phải cải thiện. Chẳng hạn như khi nhiều học sinh được phát hiện là gửi đáp án sai cho bài tập, hệ thống sẽ thông báo cho giáo viên đồng thời gửi thông điệp đến học sinh để chỉnh sửa đáp án phù hợp. Công nghệ AI còn có khả năng theo dõi sự tiến bộ của học sinh và thông báo đến giáo viên khi phát hiện ra vấn đề đối với kết quả học tập của học sinh.

 

Hơn nữa, sinh viên còn có thể học hỏi từ bất cứ nơi nào trên thế giới thông qua việc sử dụng những phần mềm có hỗ trợ AI. Công nghệ AI cũng cung cấp dữ liệu nhằm giúp sinh viên lựa chọn được những khóa học tốt nhất cho mình.

Trong truyền thông

Đối với lĩnh vực truyền thông, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo góp phần làm thay đổi cách thức tiếp cận đối với khách hàng mục tiêu. Nhờ những ưu điểm của công nghệ AI, các công ty có thể cung cấp quảng cáo vào đúng thời điểm, đúng khách hàng tiềm năng, dựa trên việc phân tích các đặc điểm về nhân khẩu học, thói quen hoạt động trực tuyến và những nội dung mà khách hàng thường xem trên quảng cáo. 

Trong ngành dịch vụ

Công nghệ AI giúp ngành dịch vụ hoạt động tối ưu hơn và góp phần mang đến những trải nghiệm mới mẻ hơn và tốt hơn cho khách hàng. Thông qua việc thu thập và phân tích dữ liệu, công nghệ AI có thể nắm bắt thông tin về hành vi sử dụng dịch vụ của khách hàng, từ đó mang lại những giải pháp phù hợp với nhu cầu của từng khách hàng. 

Xu hướng của sáng tạo công nghệ trên thế giới luôn chú tâm đến phát triển trí tuệ nhân tạo. Trong khoảng 5 đến 10 năm nữa, ngành công nghệ này sẽ thật sự đạt đến đỉnh cao. Hãy cùng chờ đợi những sáng tạo mới nhất của loài người về lĩnh vực này nhé.


2) IoT là gì?

Internet vạn vật (viết tắt: IoT- Internet of Things) là một mạng lưới liên kết rộng lớn giữa các thiết bị vật lý với nhau, như giữa các phương tiện giao thông, các hộ gia đình, các thiết bị điện tử, cảm biến, bộ dẫn động và các thiết bị khác.

Phần giao tiếp này có thể được thực hiện giữa bóng đèn và iphone. Ví dụ việc kết hợp giữa bóng đèn và đồng hồ báo thức, có thể phối hợp để làm cho thói quen dậy sớm vào buổi sáng của bạn dễ dàng.

IoT có ứng dụng lớn hơn và rộng hơn như cho bạn các tiện ích, bảo tồn năng lượng, nông nghiệp, giao thông vận tải, vận chuyển,…

 

Ví dụ, trong làm nông, các hệ thống canh tác thông minh dựa trên IoT có thể sử dụng các cảm biến để theo dõi ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ và độ ẩm đất của cánh đồng. Trong chăm sóc sức khỏe, các hệ thống dựa trên IoT có thể giám sát từ xa như huyết áp bệnh nhân, nhịp tim và tuân thủ thuốc, tăng cường đáng kể việc chăm sóc bệnh nhân,...

 

3) AI + IoT là gì? Trí tuệ nhân tạo của vạn vật là gì?

Sự kết hợp giữa trí tuệ nhân tạo (AI) và Internet vạn vật (IoT) giúp thiết bị được kết nối với trí thông minh của chúng, điều này cho phép chúng hành động theo hành vi và sở thích của người dùng mà không cần lập trình từ con người. Cùng tham khảo bài viết bên dưới để hiểu hơn sự kết hợp này nhé.

 

4) Dữ liệu lớn (Tiếng AnhBig data) là một thuật ngữ cho việc xử lý một tập hợp dữ liệu rất lớn và phức tạp mà các ứng dụng xử lý dữ liệu truyền thống không xử lý được. Dữ liệu lớn bao gồm các thách thức như phân tíchthu thập, giám sát dữ liệu, tìm kiếm, chia sẻ, lưu trữ, truyền nhận, trực quan, truy vấn và tính riêng tư. Thuật ngữ này thường chỉ đơn giản đề cập đến việc việc sử dụng các phân tích dự báo, phân tích hành vi người dùng, hoặc một số phương pháp phân tích dữ liệu tiên tiến khác trích xuất giá trị từ dữ liệu mà ít khi đề cập đến kích thước của bộ dữ liệu. "Vài nghi ngờ cho rằng số lượng của dữ liệu có sẵn hiện nay thực sự lớn, nhưng đó không phải là đặc trưng phù hợp nhất của hệ sinh thái dữ liệu mới này."

 

 

 

 

 

 

   :: Các tin khác

 
Điện thoại : 0511.3691445 - 0511.3656697 * Email: quangtrung.thpt@yahoo.com
* - Website: thptquangtrung.vn * Website : thpt-quangtrung-danang.edu.vn