Thu nhập của một nông dân Nhật Bản trong một năm gấp 40 lần thu nhập của một nông dân Việt Nam trong một năm. Do đâu? Trả lời: Do nông dân Nhật Bản đã đưa chuyển đổi số vào nông nghiệp. Nếu quý vị bộ trưởng bộ GD&ĐT vẫn bình chân như vại như các bộ trưởng trước đây: giáo viên lên lớp chỉ với viên phấn và bảng đen thì đừng nói đến việc đổi mới căn bản và toàn diện!
SỞ GD&ĐT ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG
THPT QUANG
TRUNG
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập – Tự do – Hạnh phúc
|
Số:
102 /BC-QT
|
Đà Nẵng, ngày 04 tháng 11
năm 2021
|
|
|
|
|
|
Kính
gửi Sở GD&ĐT thành phố Đà Nẵng về việc góp ý:
CHUYỂN
ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC
A/ NHẬN ĐỊNH
CHUNG VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC TRÊN CẢ NƯỚC:
Giáo dục có sự tác động lớn và nhanh nhất đến nhận
thức con người. Vì vậy, chuyển đổi số trong giáo dục giúp tiết kiệm nhiều chi
phí cho các hoạt động khác trong đời sống. Hiện tại, quá trình này được ứng
dụng qua 3 hình thức chính:
·
Ứng dụng
công nghệ trong giảng dạy
·
Ứng dụng
công nghệ trong quản lý
·
Ứng dụng
công nghệ trong vận hành, quản lý doanh nghiệp giáo dục
I/ Nội dung cơ bản của chuyển đổi số trong giáo dục
và đào tạo
Trong
lĩnh vực GDĐT, chuyển đổi số sẽ hỗ trợ đổi mới GDĐT theo hướng giảm thuyết
giảng, truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực người học, tăng khả năng tự học, tạo cơ hội học
tập mọi lúc, mọi nơi, cá nhân hóa việc học, góp phần tạo ra xã hội học tập và
học tập suốt đời. Sự bùng nổ của nền tảng công nghệ IoT, Big Data, AI, SMAC
(mạng xã hội - di động - phân tích dữ liệu lớn - điện toán đám mây) đang hình
thành nên hạ tầng giáo dục số. Theo đó, nhiều mô hình giáo dục thông minh đang
được phát triển trên nền tảng ứng dụng CNTT; hỗ trợ đắc lực việc cá nhân hóa
học tập (mỗi người học một giáo trình và một phương pháp học tập riêng không
giống với người khác, việc này do các hệ thống CNTT thực hiện tự động); làm cho
việc truy cập kho kiến thức khổng lồ trên môi trường mạng được nhanh chóng, dễ
dàng; giúp việc tương tác giữa gia đình, nhà trường, giáo viên, học sinh gần
như tức thời.
Chuyển
đổi số trong GDĐT tập trung vào hai nội dung chủ đạo là chuyển đổi số trong
quản lý giáo dục và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên
cứu khoa học (NCKH).
-
Trong quản lý giáo dục bao gồm số
hóa thông tin quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) lớn liên
thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các Công nghệ 4.0 (AI,
blockchain, phân tích dữ liệu, ..) để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra
quyết định trong ngành GDĐT một cách nhanh chóng, chính xác.
-
Trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá
gồm số hóa học liệu (sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng e-Learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư
viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến, xây dựng
các trường đại học ảo (cyber university).
II/ Các điều kiện đảm bảo cho chuyển đổi
số trong giáo dục đào tạo
Trong
GDĐT với khoảng 24 triệu giáo viên, học sinh, sinh viên, để đảm bảo thành công
chuyển đổi số trước tiên cần phải tuyên truyền, thống nhất, thông suốt về nhận
thức trong toàn ngành, đến từng nhà trường, mỗi cá nhân. Nhận định chuyển đổi
số là xu thế tất yếu của ngành, diễn ra với tốc độ rất nhanh, do đó cần có sự
chuẩn bị, đầu tư xứng tầm, tạo sức mạnh cộng hưởng và quyết tâm cao.
Cơ
chế, chính sách, hành lang pháp lý phải được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý
thuận lợi cho chuyển đổi số trong toàn ngành. Đó là các chính sách liên quan
đến học liệu như sở hữu trí tuệ, bản quyền tác giả; liên quan đến chất lượng
việc dạy học trên môi trường mạng như an toàn thông tin mạng; liên quan đến
chính trị, tư tưởng, đạo đức người dạy, người học như bảo vệ thông tin cá nhân,
an ninh thông tin trên môi trường mạng; và các quy định liên quan đến điều kiện
tổ chức dạy - học trên mạng, kiểm định chất lượng, tính pháp lý và công nhận
kết quả khi dạy - học trực tuyến.
Nền
tảng hạ tầng CNTT-VT, cơ sở vật chất cơ bản phải được trang bị đồng bộ trong
toàn ngành giáo dục đảm bảo việc quản lý, dạy - học có thể được thực hiện một
cách bình đẳng giữa các địa phương, nhà trường có điều kiện hoàn cảnh kinh tế
khác nhau; đảm bảo môi trường mạng thông suốt, ổn định, an toàn thông tin. Thực
hiện việc này cần huy động được các nguồn lực xã hội chung tay hỗ trợ trang
thiết bị đầu cuối và tham gia cung cấp các hệ thống, giải pháp đáp ứng yêu cầu
chuyển đổi số.
Cuối
cùng cần bồi dưỡng được đội ngũ nhân lực (cán bộ quản lý, giáo viên, giảng
viên, học sinh sinh viên) có kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Trước hết là kỹ năng sử dụng CNTT, kỹ năng an toàn thông tin, kỹ năng khai
thác, sử dụng hiệu quả các ứng dụng phục vụ công việc dạy - học.
III/ Thực trạng chuyển đổi số trong giáo dục đào
tạo hiện nay ở nước ta
Đến
nay, toàn ngành giáo dục đã chủ trương, xác định ứng dụng CNTT là 1 trong 9
nhóm nhiệm vụ trọng tâm triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 29 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản toàn diện GDĐT. Thủ tướng Chính phủ
cũng đã ban hành Đề án tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý giáo dục, hỗ trợ
đổi mới dạy - học, nghiên cứu khoa học triển khai trong toàn ngành2. Hàng loạt
chính sách thúc đẩy chuyển đổi số giáo dục được ban hành, dần hoàn thiện hành
lang pháp lý như các quy định ứng dụng CNTT trong quản lý, tổ chức đào tạo qua
mạng, quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học, quy định quản lý, vận hành sử
dụng hệ thống CSDL toàn ngành, mô hình ứng dụng CNTT trường phổ thông, chuẩn dữ
liệu kết nối; hướng dẫn nhiệm vụ CNNT cho khối đại học, phổ thông hàng năm và
nhiều văn bản chỉ đạo điều hành khác3.
Trong
quản lý giáo dục, toàn ngành đã triển khai số hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu dùng
chung từ Trung ương đến 63 sở GDĐT, 710 phòng GDĐT và khoảng 53.000 cơ sở giáo
dục. Hiện nay đã số hóa và định danh dữ liệu của khoảng 53.000 trường học, 1,4
triệu giáo viên, 23 triệu học sinh. Cơ sở dữ liệu này vừa qua đã hỗ trợ đắc lực
công tác tuyển sinh và thống kê, báo cáo trong toàn ngành; giúp các cấp quản lý
ban hành chính sách quản lý có hiệu quả, vừa qua đã góp phần giải quyết vấn đề
thừa thiếu giáo viên ở các nhà trường theo từng địa phương, môn học. Khối phổ
thông khoảng 82% các trường sử dụng phần mềm quản lý trường học, sổ điểm điện
tử, học bạ điện tử và hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đều sử dụng phần mềm
quản trị nhà trường. Hệ thống quản lý hành chính điện tử kết nối 63 sở GDĐT và
hơn 300 trường đại học, cao đẳng trên cả nước với Bộ GDĐT hoạt động thông suốt,
ổn định, phát huy hiệu quả tích cực.
Về
dạy - học, giáo viên toàn ngành được huy động tham gia, đóng góp chia sẻ học
liệu vào kho học liệu số toàn ngành; đóng góp lên Hệ tri thức Việt số hóa gần
5.000 bài giảng điện tử e-Learning có chất lượng, kho luận văn tiến sĩ với gần
7.000 luận văn, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm với trên 31.000 câu hỏi…góp phần
xây dựng xã hội học tập và đẩy mạnh học tập suốt đời.
Về
nhân lực số, ở bậc phổ thông, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới,
môn Tin học sẽ được đưa vào giảng dạy bắt buộc ngay từ lớp 3; giáo dục STEM
được lồng ghép trong các môn học, gắn việc học của học sinh thông qua các hoạt
động ứng dụng công nghệ để giải quyết các bài toán và hiện tượng trong cuộc
sống. Trong giáo dục đại học, triển khai cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực CNTT,
qua đó giúp các cơ sở đào tạo gia tăng cơ hội hợp tác với doanh nghiệp, các tổ
chức quốc tế để huy động các nguồn lực của xã hội tham gia vào quá trình đào
tạo nhân lực CNTT, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng nhân lực ở các doanh nghiệp
và nhu cầu của xã hội.
Tuy
vậy, chuyển đổi số ngành giáo dục đào tạo hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, tồn
tại cần tiếp tục được khắc phục, hoàn thiện cụ thể như sau:
-
Hạ tầng mạng, trang thiết bị CNTT (như máy tính, camera, máy in, máy quyét),
đường truyền, dịch vụ Internet cho nhà trường, giáo viên, học sinh - đặc biệt ở
các vùng xa, vùng khó khăn – còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, nhiều nơi chưa
đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số (cả về quản lý giáo dục và dạy - học). Đây
cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng về cơ hội học tập, tiếp cận
kiến thức giữa học sinh sinh viên ở các vùng miền, các nhà trường.
-
Số hóa, xây dựng, cập nhật học liệu số, thẩm định, chia sẻ học liệu số đòi hỏi
sự đầu tư lớn về nhân lực (gồm cả nhân lực quản lý và nhân lực triển khai) cũng
như tài chính để đảm bảo kho học liệu số đầy đủ, đạt chất lượng, đáp ứng yêu
cầu học tập, nghiên cứu, tham khảo của học sinh sinh viên ở các cấp học, ngành
học, môn học. Vì vậy hiện nay vấn đề xây dựng học liệu số (như sách điện tử, thư
viện điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, bài giảng điện tử, phần mềm học
điện tử, phần mềm ứng dụng mô phỏng) còn phát triển tự phát, chưa đi vào nề nếp
và thành hệ thống, khó kiểm soát chất lượng và nội dung học tập. Kéo theo đó là
hệ thống giải pháp học tập VLE/LMS có tính tương tác cao (khác với các hệ thống
họp trực tuyến) cũng triển khai tự phát, thiếu sự đồng bộ và chia sẻ giữa các
nhà trường dẫn đến lãng phí chung.
B. NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG :
I/ Theo dự thảo về chuyển đổi số ngành giáo dục và
đào tạo thành phố Đà Nẵng thì:
1/ Về cơ chế, chính sách và nhận thức:
-Sở
đã ban hành các chính sách về CNTT như: Quy chế ứng dụng CNTT; Quy chế an toàn an
ninh thông tin; Nhiệm vụ ứng dụng CNTT hàng năm và nhiều văn bản chỉ đạo về
CNTT như: Phần mềm quản lý văn bản và điều hành; Sử dụng địa chỉ thư điện tử
công vụ; Ứng dụng Chữ ký số; Triển khai dịch vụ công trực tuyến,…
-Tuy nhiên đến nay vẫn còn
một số hạn chế khi triển khai chuyển đổi số; Chưa có kế hoạch cụ thể về chuyển
đổi số của ngành giáo dục đào tạo và chưa có quy định thống nhất về sử dụng các
hồ sơ điện tử nói chung trong trong trường học và học bạ điện tử nói riêng trên
phạm vi toàn quốc.
2/ Về hạ tầng số:
Công tác ứng dụng CNTT trong ngành GD&ĐT thành
phố Đà Nẵng thời gian qua đã đạt được những kết quả ban đầu, cơ bản hổ trợ công
tác dạy và học và quản lý nhà nước của ngành GD&ĐT thành phố Đà Nẵng được
thống kê theo : Tên thiết bị; Số lượng; Thời gian lắp đặt; Ghi chú (Xem trang 4
và 5 Dự thảo)
Ngoài ra, còn có các mục: Về dữ liệu số; Về các nền
tảng, ứng dụng và dịch vụ; Về ứng dụng CNTTtrong các tổ chức thuộc phạm vi quản
lý của ngành GD&ĐT; Về nhân lực số; Đánh giá chung.
II/ MỤC TIÊU:
1/Mục
tiêu tổng quát
2/
Mục tiêu cơ bản đến năm 2025
2.1
Đẩy mạnh phương thức dạy và học
2.2
Dổi mới căn bản phương thức quản lý nhà nước về giáo dục và quản lý cơ sở giáo
dục theo hướng tinh gọn, hiệu quả và minh bạch, với dữ liệu và công nghệ số là
nền tảng và công cụ quản lý chủ yếu.
3/
Mục tiêu cơ bản đến năm 2030
3.1
Đổi mới cơ bản phương thức dạy và học
3.2
Đổi mới căn bản, đồng bộ hệ thống quản lý giáo dục
II/ THỰC TIỂN VÀ SỰ ĐÒI HỎI CẤP THIẾT HIỆN NAY CỦA
NGÀNH GIÁO DỤC CẢ NƯỚC NÓI CHUNG VÀ CỦA THÁNH PHỐ ĐÀ NẴNG NÓI RIÊNG.
Về Ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý và Ứng dụng công nghệ thông tin trong vận hành, quản
lý trong các trường học giáo dục nhìn
chung là tốt và cần vận dụng. Tuy nhiên cái hạn chế nhất của ngành giáo dục nói
nói chung và tại thành phố nói riêng và vô cùng bức xúc: Hầu hết giáo viên ta
dạy trên lớp cơ bản là với viên phấn và bảng đen, giáo viên hầu như giảng miệng
như 50 năm trước đây, có một vài thay đổi nhỏ một số tiết dạy, cơ bản sử dụng
trong các tiết thao giảng mang tính trình diễn, lập thành tích để thi đua, trong
bối cảnh CNTT đang hiện diện trên từng lớp học, nhất là trong bối cảnh cuộc
cách mạnh công nghệ 4.0 đang nỡ rộ.
Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã có chỉ đạo: Ngành giáo dục phải ĐỔI MỚI CĂN BAN VÀ TOÀN
DIỆN theo Nghị quyết 29 của Bộ Chính trị. Tuy nhiên đã qua 3 đời Bộ GD&ĐT, chưa thấy một bộ trưởng nào đổi
mới việc dạy đổi mới trên lớp, vẫn viên phấn và bảng đen như 50 năm về trước!
Thực tế
là có một số trường đưa CNTT vào từng lớp học, nhưng số lượng các tiết dạy còn
hạn chế. Không biết rõ có trường nào dạy học 100% các tiết trên lớp không?
Riêng ở Đà Nẵng chưa thống kê số lượng trường nào dạy học trên lớp cả tuần lễ
bằng CNTT, dạy cả năm học dạy bằng CNTT. Bởi lẽ, để thực hiện được điều này,
việc trang bị các thiết bị CNTT trên lớp tuy rất tốn kém nhưng nhiều trường vẫn
chưa thực hiện được. Hai cái khó nhất ở
đây là:
-
100% giáo viên phải dạy được bằng CNTT,
- 100% giáo viên phải soạn được giáo án điện tử
suốt cả năm học, ít nhất bằng powerpoint và nếu có khả năng cao hơn bằng
e-Learning!
Muốn
điều này xảy ra cần tồn tại một nhân vật thật đam mê về CNTT,có trình độ và biết
kiên nhẫn vượt qua mọi khó khăn
C/ Để thực hiện được các điều trên,
trường THPT Quang Trung đã thực hiện chuyển đổi số trong từng lớp học để đào tạo
giáo viên biết soạn giáo án điện tử, biết dạy trên lớp 100% bằng CNTT với bài giảng điện tử e-Learning suốt cả
năm học, dạy toàn bộ 11 môn học và đã dạy trong 10 năm nay như thế nào?
1.
Khát vọng
đưa CNTT vào từng lớp học:
Từ
năm 2007, trường THPT Quang Trung đã có một khát vọng đưa CNTT vào trường học,
thậm chí muốn đưa CNTT từng lớp học với một tỷ lệ cao nhất. Trường đã trang bị
cho 50% lớp học các thiết bị CNTT như máy tính, máy chiếu, loa, cassette,…để
chỉ đạo giáo viên sau khi soạn giáo án giấy từ bộ SGK giấy của Bộ GD&ĐT
thành giáo án word lúc đầu, sau đó phải chuyển sang powerpoint để dạy trên lớp
với nhiều hình ảnh màu minh họa, một vài video và các thí nghiệm ảo.
2. Cơ hội nào để trường THPT Quang Trung
đưa được CNTT vào từng lớp học bằng bài bài giảng điện tử e-Learning để cho giáo viên giảng dạy cho học sinh bằng Sách giáo khoa điện tử do chính trường Quang Trung soạn ?
2.1. Đến năm 2007, khi có ông Cục trưởng cục CNTT
Bộ GD&ĐT Quách Tuấn Ngọc về Sở GD&ĐT Đà Nẵng tập huấn cho các trường về
cài đặt phần mềm Lecture Maker của Hàn Quốc để biến bài giảng powerpoint thành
bài giảng điện tử e-Learning thì hiệu trưởng trường Quang Trung rất phấn khởi
và có quyết tâm đưa bài giảng e-Learning này vào các lớp học thay cho bài giang
powerpoint đang dạy trên lớp. Cuối năm học 2007-2008, trong phiên họp hội đồng
cuối năm, hiệu trưởng đề nghị mỗi giáo viên trong hè về nhà soạn một tiết giáo án điện tử
e-Learng.
2.2. Khi vào năm học
mới 2008-2009, tất cả giáo viên đều báo cáo là chưa soạn được một bài giảng điện tử
e-Learning nào. Trước thực tế này, thầy hiệu trưởng lên quyết tâm ngày đêm tìm hiểu làm sao để
soạn cho được bài giảng điện tử e-Learning. May mắn là thầy đã tìm thêm một phần mềm khác để soạn
được e-Leaning và thầy đã soạn mỗi môn trong 11 môn Toán Văn Anh; Lý Hóa Sinh
Công nghệ Tin, Sử Địa GDCD và trình chiếu
cho các tổ chuyên môn xem và nghe lời giảng bài. Từ đó, 11 tổ chuyên môn khi về nhà đều bắt đầu soạn được tất cả các tiết
dạy theo từng tuần, theo suốt học kỳ I và học kỳ II.
2.3 Trong năm học đầu, giáo viên nào soạn xong một tiết dạy
đều phải nộp cho hiệu trưởng xét duyệt. Mỗi file là một tiết dạy, nếu có lỗi về
chính tả, hình ảnh và nhất là âm thanh: như tiếng giảng bài nhỏ hay lỗi đều bị trả
lại. Việc làm này là rất công phu, tốn nhiều sức lực của cả giáo viên và hiệu
trưởng. Kết quả là các năm đầu tiết dạy nào còn nhiều sai sót thì cần phải điều chỉnh, thậm chí cả đến
hai năm sau vẫn phải điều chỉnh thì mới tạm thời hoàn chỉnh.
2.4. Do sản phẩm làm ra
chỉ có đuôi .lme, nên máy tính chỉ đọc được khi máy tính có cài phần mềm Lecture
Maker. Đây cũng trở ngại cho người dùng. Trường Quang Trung còn có tham vọng
đưa kết quả này lên mạng là website có tên miền thptquangtrung.vn để cho
nhiều học sinh tự học hay tham khảo trước ở nhà, kể cả các học sinh trên toàn
th! giới muốn học chương trinh bậc trung học phổ thông Việt Nam ! Mà muốn đưa
lên mạng, thì trường Quang Trung phải chuyển đổi các file có đuôi .lme sang các
file có đuôi .lmd. Việc làm này hiệu trưởng cũng phải mất một thời gian ngày
đêm 3 tháng, mỗi đêm chỉ ngủ 3 giờ mới đưa hết lên mạng thptquangtrung.vn . Ngoài
ra, do dung lượng trang web rất nặng: 25 GB gấp 50 lần so với trang Web bình
thường, nên trường phải trả chi phí cao.
3. Trường THPT Quang Trung báo cáo
kết quả chuyển đổi số trong dạy học lên các đồng chí
lãnh đạo trung ương:
3.1. Năm học 2014-2015, sau khi trường Quang Trung đã hoàn
thành bước đầu chuyển đổi số từ
33 bộ sách giáo khoa giấy thành 33 bộ sách giáo khoa điện tử, hiệu trưởng đã gửi 33 bộ
sách giáo khoa điện tử này lên các đồng chí lãnh đạo trung ương: Tổng bí thư
Ngyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, các Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc,
Vũ Đức Đam, bộ trưởng GD&ĐT Phạm Vũ Luận.
3.2.
Phản hồi của các đồng chí lãnh đạo:
-
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có bút phê gửi bộ GD&ĐT do đồng chí Nguyễn Khắc
Định, khi là Phó Chủ nhiệm văn phòng chính phủ (nay là Phó Chủ tịch quốc hội) ký tên đóng dấu gửi lời trả lời đến trường THPT Quang
Trung;
-
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gửi thư trực tiếp đến Ông Phạm Sỹ Liêm và giáo
viên Quang Trung đã hình thành bộ sách giáo khoa điện tử e-Learning này, đồng
thới cũng là bộ giáo án điện tử e-Learning theo 5 bước để giáo viên dạy bằng
CNTT toàn bộ trên lớp trong suốt cả năm, góp phần phục vụ Nghị quyết 29 của Bộ
chính trị về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo;
-
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đích thân gọi điện đến thầy Pham Sỹ Liêm chúc mừng
công trình số hóa toàn bộ sách giáo khoa điện tử này;
-
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận viết thư đến thầy Phạm Sỹ Liêm và trường
Quang Trung nói rõ đã báo cáo cho Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đồng viết thư chúc mừng
công trình số hóa này, và hứa sẽ chuyển công trình n ày đến bộ phận đổi mới chương trinh sách giáo khoa của bộ.
3.3.
Sự hạn chế triển khai chuyển đổi số của ngành giáo dục cả nước nói chung và của
Sở GD&ĐT thành phố Đà Nẵng nói riêng:
-
Ngay sau khi bộ trưởng Phạm Vũ Luận chuyển công trình chuyển đổi số trên các lớp
học này, bộ phận đổi mới do ông Nguyễn Minh Thuyết chủ trì chỉ có chủ trương viết
lại sách giáo khoa giấy mà không hề đề cập đến chuyển sách giáo khoa giấy thành
sách giáo khoa điện tử để phục vụ trực tiếp học sinh trên lớp trong thời đại
công nghệ 4.0.
-
Hệ quả là, tuy trường Quang Trung là người mở đường, bỏ bao nhiêu công sức
ngày đêm để hình thành công trình này, là người biết chuyển đổi số sớm nhất cho ngành giáo dục, nhưng do bộ GD&ĐT không quan tâm, nên công trình vĩ đại này bị đưa vào lãng quên, cho nên trường Quang Trung trung trở thành “người cô đơn” đi giữa dòng đời chuyển đổi
số của ngành giáo dục.
-
Tuy nhiên, trong hơn 10 năm qua, trường THPT Quang Trung vẫn một mình một ngựa vẫn
can đảm chèo lái con thuyền chuyển đổi số vì đang có một thực tiển do Bộ trưởng
bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan phát biểu câu chuyện phải chuyển đổi số ngành nông nghiệp
Việt Nam vì: Thu nhập của một nông dân Nhật Bản trong một năm gấp 40 lần thu nhập
của một nông dân Việt Nam trong một năm. Do đâu? Trả lời: Do nông dân Nhật Bản
đã đưa chuyển đổi số vào nông nghiệp. Nếu quý vị bộ trưởng bộ GD&ĐT vẫn
bình chân như vại như các bộ trưởng trước đây: giáo viên lên lớp chỉ với viên
phấn và bảng đen thì đừng nói đến việc đổi mới căn bản và toàn diện!
-
Trong năm học 2021-2022, hiệu trưởng Quang Trung đã dành cả 3 tháng hè để chuyển
các bộ đĩa DVD về sách giáo khoa điện tử thành các USB nhỏ bé để mọi học sinh sử
dụng tự học trước ở nhà mà không cần đi học thêm, tránh việc đua nhau đi học
thêm gây bức xúc xã hội. Riêng giáo viên, hiệu trưởng cũng coppy bài giảng điện
tử e-Learning cả 3 khối 10,11 và 12 để phát đến tận tay từng giáo để soạn giáo
án điện tử trước khi lên lớp.
Nơi
nhận:
HIỆU TRƯỞNG
-
Như
trên
-
Lưu
VT
PHẠM SỸ LIÊM |